Chờ...

Tuyển tập thơ Đoàn Thị Điểm và những giai thoại được lưu truyền

VOH -  Nhắc đến nhà thơ Đoàn Thị Điểm nhiều người sẽ nghĩ ngay đến "Chinh Phụ Ngâm". Cùng với đó là những giai thoại về bà được lưu truyền trong dân gian.

Khi nhắc đến các nhà thơ Việt Nam thời Lê, ta thường nghe nhiều đến những cái tên như: Hồ Xuân Hương, Đặng Trần Côn, Ngô Thì Sĩ, Đào Duy Từ…. và có cả Đoàn Thị Điểm. Bài viết dưới đây, VOH sẽ cùng bạn tìm hiểu về tiểu sử nhà thơ Đoàn Điểm cùng những sáng tác nổi bật nhất của bà.

Đoàn Thị Điểm là ai?

Cuộc đời

Đoàn Thị Điểm (hiệu Hồng Hà Nữ sĩ) là nhà thơ nổi tiếng thời Lê trong lịch sử Việt Nam. Bà sinh năm 1705 và mất năm 1748. Cha bà là Đoàn Doãn Nghi và anh trai là danh sĩ Đoàn Doãn Luân. Tuy nhiên, theo sử sách thì bà vốn gốc họ Lê, đến đời cha mới đổi sang họ Đoàn.

Nhiều người không biết bà Đoàn Thị Điểm quê ở đâu? Thật ra, tổ quán của bà ở xã Hiến Phạm, huyện Văn Giang, xứ Kính Bắc. Sau bà và mẹ về ở với anh trai ở huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương.

voh-tho-doan-thi-diem-6

Năm 16 tuổi, Đoàn Thị Đđiểm được Thượng thư Lê Anh Tuấn để ý, nhận bà làm con nuôi và ngỏ ý muốn đưa bà vào cung chúa Trịnh. Thế nhưng bà không đồng ý. Sau sự kiện đó, bà bèn cùng anh trai đi tới chỗ người cha đang dạy học ở làng Lạc Viên, huyện Yên Dương, tỉnh Kiến An để tránh sự việc không hay không hay có thể xảy ra vì việc từ hôn.

Năm 1729, bà Đoàn Thị Điểm 25 tuổi thì thân phụ mất. Đến năm 1735 thì anh trai Doãn Luân cũng qua đời. Thời điểm này, bà đảm nhận gánh nặng gia đình. Có lẽ vì thế mà dù được nhiều người ngỏ ý, trong đó có cả những người quyền quý, nhưng bà đều từ chối.

Mãi đến năm 1742, lúc này bà đã 37 tuổi, bà mới nhận lời lấy tiến sĩ Nguyễn Kiều. Năm 1748, ông Nguyễn Kiều được bổ nhiệm làm Tham thị ở Nghệ An. Trong lúc cùng chồng lên đường đến nhiệm sở mới, bà bị bệnh nặng rồi mất ở Nghệ An.

Tác phẩm của Đoàn Thị Điểm

Lúc sinh thời, Đoàn Thị Điểm được biết đến là một người thông minh, chăm học và có tài văn chương. Suốt thời gian thơ ấu đến tuổi trưởng thành, bà thường xướng họa thơ với cha và anh trai.

Theo nhiều tài liệu ghi chép, những đóng góp của Đoàn Thị Điểm có cả chữ Hán lẫn chữ Nôm. Trong đó có hai tập truyện vô cùng nổi tiếng là:

  • Chinh phụ ngâm (dịch thơ chữ Hán của Đặng Trần Côn, tuy nhiên có tài liệu cho là Phan Huy Ích dịch)
  • Truyền kỳ tân phả (hay Tục truyền kỳ) nối tiếp Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ

Ngoài ra, bà còn sáng tác một số tác phẩm thơ khác như: Nữ trùng tùng phận (1401 câu thơ), Bộ bộ thiềm - Thu từ (tức Bộ bộ thiềm - Bài hát mùa thu).

Những giai thoại về Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm

Theo lưu truyền, có rất nhiều giai thoại kể về Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm. Dưới đây là một số giai thoại điển hình:

Giai thoại đối đáp thơ sử với anh trai

Đoàn Thị Điểm khi vừa lên 6 tuổi, đang học Sử Ký Trung Hoa thì được anh trai là Doãn Luân lấy một câu trong Sử Ký ra đề: “Bạch xà đương đạo, Quý bạt kiếm nhi trảm chi” (“Rắn trắng giữa đường, ông Quý (Lưu Bang) tuốt gươm mà chém”).

Nghe xong câu đối, bà cũng lấy một câu trong Sử Ký đối lại như sau: “Hoàng long phụ chu, Vũ ngưỡng Thiên nhi thán viết” (“Rồng vàng đội thuyền, ông Vũ (Hạ Vũ) ngửa mặt mà than”).

Rồi một lần khác, khi thấy em gái soi gương, ông Doãn Luân bèn ra một vế: “Đối kính họa mi, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm” (“Soi gương vẽ mày, một nét thành hai nét” hoặc có thể hiểu “Soi gương vẽ mày, một bà Điểm hóa hai bà Điểm”).

Lúc này, ông Doãn Luân đang ngồi trên cầu rửa tay. Thấy vậy, bà liền đối rằng: “Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân) (“Ra ao ngắm trăng, một vầng chuyển hóa hai vầng” hoặc có thể hiểu “Ra ao ngắm trăng, một ông Luân hóa hai ông Luân”).

Giai thoại Đoạn Thị Điểm với các tân khách

Giai đoạn Đoàn Thị Điểm cùng gia đình cư ngụ ở làng Võ Ngại, huyện Đường Hào (Hưng Yên), bà thường thay anh trong việc thù tiếp các tân khách. Vì bà xinh đẹp, thông minh lại giỏi giao tiếp nên tiếng tăm vang xa. Khách đến chơi không chỉ là bằng hữu của anh mà còn có cả những người đến chỉ để ngắm nhìn bà.

Khi ấy, có hoàng giáp Vũ Diệm và các bạn tiến sĩ Nhữ Đình Toản và Nguyễn Công Thái cùng kéo đến nhà bà Điểm. Bà Điểm tiếp đãi rất lịch sự, bà cho người bưng khay trầu ra mời, trên khay có đề một câu đối: “Đình tiền thiếu nữ khuyến tân lang”.

Hai chữ “thiếu nữ” có thể hiểu theo nghĩa gió nhẹ hoặc “cô gái”, còn chữ “tân lang” thì có thể hiểu là “cây cau” hoặc “chàng rể”. Nguyên câu đối có nghĩa: “Trước sân có gió thoảng phất cây cau” hoặc “Trước sân có cô gái mời chàng rể”.

Sau khi đọc xong, những người ngồi tại đó chỉ biết liếc mắt nhìn nhau, chẳng ai đối lại được. Thế là trầu cũng chẳng kịp ăn, ý định chọc ghẹo cũng tan biến, chỉ đành nhã nhặn gửi lời chào rồi vội vã rút lui…

Giai thoại Đoàn Thị Điểm và Trạng Quỳnh

Trong dân gian còn truyền tụng giai thoại về bà Đoàn Thị Điểm và Trạng Quỳnh (Cống Quỳnh) như sau: Thuở còn đi học, Quỳnh để ý con gái thầy dạy học là Đoàn Thị Điểm nhưng lại không thể trêu ghẹo được cô, bởi ngoài vẻ xinh đẹp cô còn rất giỏi văn thơ đối đáp.

Một lần thấy Quỳnh đang ngồi, Thị Điểm bỗng ra một câu đối có ý trêu: “Lê phố Mía gặp cô hàng mật, cầm tay kẹo lại hỏi thăm đường”. Nghe xong, Quỳnh chẳng biết đối lại thế nào, đành phải đánh bài chuồn.

Một lần khác, Quỳnh thấy cô Điểm đi vào buồng tắm, bèn nghịch ngợm gõ cửa đòi vào. Nghe thế, cô liền ra ngay một vế đối, bảo nếu Quỳnh đối được thì cho vào. Câu đối như sau: “Da trắng vỗ bì bạch!”. Quỳnh nghĩ mãi cũng không tìm ra câu để đối lại, đành lũi thủi bỏ đi.

Một lần nọ nhân dịp ngày xuân, cô Điểm được thầy sai đem lễ lên chùa, Quỳnh cũng được thầy cho theo cùng. Trên đường, Thị Điểm chỉ cây xương rồng rồi nói: Cây xương rồng, trồng đất răn, long vẫn hoàng long. Ý bảo Quỳnh ngang ngạnh, có dạy dỗ thế nào cũng không chuyển được.

Thế mà, lần này Quỳnh lại đối lại một câu rất chỉnh chu như sau: Quả dưa chuột, tuột thẳng giang, thử chơi thì thử.

Qua lần đối đáp này, hai người liền cảm thấy tư tưởng không hợp nhau nên kể từ đấy cả hai thôi xướng họa.

Thơ Đoàn Thị Điểm nổi bật

Các tài liệu ghi chép, Đoàn Thị Điểm sáng tác thơ không nhiều. Nữ trung tùng phận được xem là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của bà. Tập thơ có tất cả 1401 câu được chia thành 5 phần.

Phần 1: Ý nghĩa tác phẩm

01.

Dụng văn hoá trau tria nữ phách,
Lấy kinh luân thúc thách quần hồng.
Gươm thư giúp sức gươm hùng,
Điểm tô nghiệp cả con Rồng cháu Tiên.

05.

Bởi rẻ rúng thuyền quyên thiếu học,
Dầu chí thân tơ tóc cũng khi.
Tinh thần cao thấp nhờ thi,
Dục tài nữ sĩ sánh bì cùng nam.

09.

Chinh phụ trước treo nên giá quí,
Áng văn làm nhuệ khí cầu vinh.
Thêm duyên chước quí giao tình,
Mỹ ngôn nương ý gia đình an vui.

voh-tho-doan-thi-diem-1

Phần 2: Lời khuyên phụ nữ

13.

Nấu kinh sử ra mùi son phấn,
Cầm bút nghiên đặng thắm má đào.
Quần xoa đỡ ngọn binh đao,
Xây hình thục nữ giặm màu nước non.

17.

Cửa Thánh miếu hỡi còn thiếu gái,
Chốn quyền môn nữ lại vẫn không.
Vật chơi ở chốn khuê phòng,
Đã cam phận vợ để chồng cầm duyên.

21.

Phần nội trợ trăm phiền đeo đẳng,
Đạo phụ cơ đã nặng cho mình.
Duyên may chồng đã nghĩ tình,
Còn cha còn mẹ có đành phận đâu?

25.

Nỗi em chị bởi đâu chẳng thuận,
Nỗi nhi tôn lẩn bẩn bên lưng.
Nỗi nhà, nỗi bếp, nỗi lân,
Nỗi trong thân tộc, nỗi gần, nỗi xa.

29.

Trên lo thảo, giữa hoà, dưới thuận,
Ngoài nên danh, trong vững mối giềng.
Nỗi trông hương hoả giữ bền,
Giúp nên chồng có phẩm quyền cao sang.

33.

Mảng lo lắng chữ nhàn nào rõ,
Huống để công đến ngõ Khổng Trình.
Rừng Nho biển Thánh thinh thinh,
Nữ lưu nào thấu muôn nghìn thi thơ.

37.

Kỉnh tổ hiển nỗi thờ nỗi phụng,
Tế tông đường lo cúng lo đơm.
Kiến thân viếng sớm thăm hôm,
Chua cay rõ miếng cơm ngon cá bùi.

41.

Lưỡi lừa miếng nhai cơm lũ trẻ,
Kiêng vật ăn đặng để nuôi con.
Còn con nòi giống chồng còn,
Mảnh thân đành chịu hao mòn với ai?

45.

Còn gặp thuở xanh mày lịch sắc,
Dâng hình hoa treo mắt bướm ong.
Nào là hương đượm lửa nồng,
Nết khuôn giữ vẹn chữ đồng lương nhân.

49.

Muốn trau chuốt mặt ngần thân dịu,
Vẽ cho hay mày liễu má đào.
Thương gìn lúc ốm khi đau,
Sợ chê xấu phận, cậy màu phấn son.

53.

Mình mỏng mảnh sức non nớt yếu,
Đỡ nâng chồng vốn thiếu tay co.
Không toan sớm đói chiều no,
Lựa là tứ hải ngũ hồ giúp nhau.

57.

Cứ tựa cửa phòng đào giấu dạng,
Ngoài nước non nào hẳn vơi chênh.
Mảng trong thấm nghĩa nặng tình,
Để công bẻ liễu, bắn bình trượng phu.

61.

Dầu khôn mấy giả ngu cho thuận,
Phải bao nhiêu cũng nhận lỗi lầm.
Phòng đào giữ rủi rơi trâm,
Sợ lơi hơi sắt, tiếng cầm lạc cung.

65.

Thử từ nết khi chung lúc chạ,
Gióng từ hơi hoà nhã tơ loan.
Chiều vui dưới trướng ngoài màn,
Nhẫng lo ngại nỗi phụ phàng ái ân.

69.

Nghe từ lịnh, cúi vâng từ mạng,
Nhọc lòng chi nào dám dỉ hơi.
Sợ cơn giông gió tơi bời,
Trà mi sơ sẩy hoa rời rã bông.

73.

Che đậy kín tường đông ong bướm,
Giấu nhặt nghiêm nhuỵ tướng hương hình.
E khi vách có âm thinh,
Để gương lỗi đạo, lỗi tình phu thê.

77.

Giao thân cứ gần kề kẻ thiết,
Ép nhớ thương làm điếc làm đui.
Mặc người cha mẹ dễ duôi,
Ngoại tông nương phận nếm mùi trân cam.

81.

Hiểu thương ghét giả cam phận dại,
Biết nên hư chẳng cãi cho cùng.
Nên thì an phận kiếm cung,
Hư thì khổ vợ tội chồng chung nhau.

85.

Ngoài mặt phép, chàng sao thiếp vậy,
Giữa cửa công, phải quấy đồng thân.
Vinh thì chàng mão thiếp cân,
Hèn thì chàng váy thiếp quần đổi thay.

89.

Lấy khổ cực làm bài thuốc mến,
Dụng đau thương rù quến thâm tình.
Dầu chàng đổi dạ én anh,
Tề mi vẹn đạo, giữ gìn phép khuôn.

93.

Nâng khăn trấp giải buồn quân tử,
Hầu tửu trà giấc ngủ không an.
Chàng vui thiếp cũng vui càn,
Chàng buồn thiếp tựa bên màn khóc theo.

97.

Dòng Tương chảy thân bèo trôi nổi,
Chẳng ai thương chữa lỗi binh lời.
Chàng thì biển cả vơi vơi,
Thiếp như bóng bọt giữa vời linh đinh.

101.

Nếu gặp phước bố kinh đáng khách,
Biết yêu hoa dưới ngạch phòng thu.
Rủi duyên gặp phải thường phu,
Nhành xuân thì trọng, gương thu dở cầm.

105.

Khi lịch sắc trao trâm đáng giá
Cơn tàn hoa, keo rã sơn rời.
Vẻ hồng mắc mỏ bao mươi,
Đưa cho quân tử trọn đời chủ trương.

109.

Nhuỵ đương nở mùi thơm ngào ngạt,
Dâng hình hoa lo lót con ong.
Trăm năm kim cải cũng chồng,
Trái duyên cũng vẹn đạo tòng mà thôi.

113.

Thân lòn cúi, vợ tôi chồng chúa,
Đạo phu thê như đũa nên đôi.
Dầu cho lúc đứng khi ngồi,
Chàng là chúa cả, thiếp thời gia nô.

117.

May quan cả, rủi cho lê thứ,
Trong tộc gia cũng cứ phép nhà.
Hèn người sang ấy của ta,
Chê người ta lại cho là đáng khen.

121.

Chồng sang đặng, ta hèn chẳng quản,
Chồng đẹp hình, ta mảng lo âu.
E ra nhiều thiếp nhiều hầu,
Rồi tham bẻ lựu, bỏ đào bơ vơ.

125.

Hễ xấu dạng thì nhơ mặt thiếp,
Còn đẹp hình, nhát kiếp phù dung.
Mình thương người cũng thương cùng,
Còn như chê bỏ, lại dùng vào đâu?

129.

Kiếm xứng mặt mày râu dưới thế,
E không mưu đủ kế gìn duyên.
Còn theo thăm ván bán thuyền,
Trông chi giữ mảnh hương nguyền cùng nhau.

133.

Lỡ lối cũ động đào lạc bước,
Khó cầm duyên đợi ngọc cầu Lam,
Thân Tiên dầu lỡ gót phàm,
Gương xưa lỗi ráp, ai cầm làm chi?

137.

Nhẹ là bức, nặng chì tình nghĩa,
Để dùng riêng cho phía nữ lưu.
Thung dung quân tử hảo cừu,
Năm thê bảy thiếp mặc dầu trăng hoa.

141.

Nào có tưởng vợ nhà đau đớn,
Ôm tình si muôn lượng sầu than.
Máu ghen chăn gối dẫy tràn,
Hình mai ủ dột sắc càng héo don.

145.

Hễ càng ngắm hao mòn đoá ngọc,
Càng riêng lo tơ tóc không bền.
Chàng vui cung nguyệt trao duyên,
Thiếp sầu sợ nén hương nguyền bớt thơm.

149.

Lo ngại rồi ra cơn mất nết,
Vì ghen tương hết biết thân mình.
Dám toan tử tiết với tình,
Còn chi kể đến gia đình hư nên.

153.

Nếu ôm ấp một bên thương nhớ,
Bịnh tương tư khó gỡ cho kham.
Nên toan đập nát cung cầm,
Vô duyên đành phận, sống làm chi đây?

157.

Thương ra giận khó khuây nỗi nhớ,
Mối tơ duyên ai gỡ cho đang?
Hỡi người cỡi phụng ngừa loan,
Phải chi vợ dám phụ phàng mới sao?

161.

Tả nỗi thảm thêm đau mấy đoạn,
Mượn bút hoa đắp cạn thành sầu.
Tiếng tiêu dầu lọt phụng lầu,
Hoặc may gỡ đặng dây sầu nữ nhi.

165.

Cầm bút ngọc đề thi tự thuật,
Một kiếp sanh của bậc văn tài.
Nêu gương tuyết giá hậu lai,
Gỡ trong muôn một những bài sanh ly.

169.

Khi đầu ấp cùng khi tay gối,
Thân thiết nhau sớm tối quen hơi.
Chừ sao chong ngọn đèn ngồi,
Cô đăng giỡn bóng, ghẹo người thương tâm.

173.

Nào là thuở âm thầm dan díu,
Vịn bóng trăng đặng níu hoa đào.
Chừ sao bỏ cảnh úa xào,
Nhuỵ phai hương lợt, khuôn rào tả tơi.

177.

Nào khi đứng lúc ngồi đủ mặt,
Qua tường đông lóng bậc tơ đồng.
Chừ sao chăn chiếu lạnh lùng.
Phím loan nín bặt, tranh tòng đứt dây.

181.

Nào khi lén vẽ mày thục nữ,
Nào khi lo gìn giữ hương thề.
Chừ sao bướm cũ lìa huê,
Vườn thu vắng khách, ủ ê canh tàn.

185.

Nào khi tựa bên màn canh lụn,
Nào khi ngồi ngó bóng Hằng Nga.
Chừ sao để lụn canh gà,
Vắng hoe gối phụng, nguyệt tà hoa thưa.

189.

Nào khi đổ mây mưa đảnh giáp,
Nào khi lo ấm áp cung thiềm.
Chừ sao vắng dạng tàn đêm,
Gia cư rách cửa, ven thềm cỏ chen.

193.

Nào khi ước giữ niềm son sắt,
Nào thề non nắm chặt dải đồng.
Chừ sao đổi dạ thay lòng,
Hẹn xưa bỏ chảy theo dòng Tương giang.

197.

Nào khi đứng giữa đàng trông ngọc,
Nào khi ngồi dưới bộc trong dâu.
Chừ sao phụ nghĩa sơ giao,
Phòng toan ném gánh tâm đầu sông Ngân.

201.

Nào khi đến cầu Lam chưởng ngọc,
Nào khi lo giã thuốc trường sanh.
Chừ sao bỏ nghĩa én anh,
Tham lê bỏ lựu, phụ tình trước mai.

205.

Nào khi cửa then gài mấy lớp,
Cấm vườn xuân nườm nượp én anh.
Chừ hoang cây cỏ xủ mành,
Gần cây chim lánh, đến cành gió day.

209.

Nào khi sắc so tài đẹp dạ,
Nào khi nhen hương hoả ba sinh.
Chừ toan bứt mảnh tơ tình,
Trà ngâu chê nhớ, rượu quỳnh chối thương.

213.

Nào khi hỏi thăm hang Từ Thức,
Nào khi dò mấy bực cầu ô.
Chừ sao kẻ Hớn người Hồ,
Để cho phòng hạnh ra mồ quạt duyên.

217.

Nào là lúc ngửa nghiêng đêm quạnh,
Nào là khi thức tỉnh đêm khuya.
Chừ sao loan phụng chia lìa,
Con trông vợ nhớ, mắt kề ngó song.

221.

Càng thấy con khờ không đủ trí,
Càng thêm lo huyết khí bên chồng.
Nâng niu lúc ẵm khi bồng,
Phụ thân thế phận cho chồng dạy khuyên.

225.

Càng sợ hở thung huyên phiền muộn,
Thảm bao nhiêu gắng gượng làm vui.
Tảo tần sớm dưỡng chiều nuôi,
Thế chàng thiếp lãnh vai người hiếu nam.

229.

Thấy em dại không ham đèn sách,
Càng để lòng hỏi hạch kinh luân.
Thay chàng thiếp trả nghĩa thâm,
Dạy em văn hoá, thiếp làm trưởng huynh.

233.

Càng nghĩ đến linh đinh phận thiếp,
Càng ngại lo tội nghiệp thân con.
Những ngờ nước thấm đầu non,
Nào hay trăng khuyết hao mòn nhơn duyên.

237.

Càng đeo đẳng nỗi phiền nỗi thảm,
Càng thương thân chích bạn lìa đôi.
Phận sao phận bạc như vôi,
Nước lưng đáy gáo, hương trôi dòng là.

241.

Càng ngắm đến cỏ hoa vật loại,
Càng thẹn vì vắn vỏi tơ tình.
Chim kết cánh, cây liền cành,
Còn thân thiếp chịu một mình đơn cô.

245.

Kìa cá giỡn vẩn vơ đáy nước,
Nọ kết đôi cưu thước ven trời.
Còn thân thiếp chịu cút côi,
Đèn khuya nhắc thảm, gió mơi ghẹo sầu.

249.

Kìa oan ương ấp nhau chẳng hở,
Nọ én anh rỉ rả kêu thương.
Còn ta luống những đoạn trường,
Gối chăn tê tái, chiếu giường lạnh tanh.

253.

Kìa cầm điểu bẻ cành kết ổ,
Nọ thú trùng moi lỗ làm hang.
Nầy thân thiếp chịu gian nan,
Linh đinh đất chiếu, trời màn không nơi.

257.

Kìa ong kiến tha mồi dành để,
Cơn khốn cùng có thể nuôi thân.
Còn thân thiếp chịu khốn nàn,
Tả tơi nỗi mẹ, truồng trần nỗi con.

261.

Thôi đành kiếp nớt non gượng sống,
Sống vì con, chẳng sống vì thân.
Đòi phen đổi thảm ra mầng,
Nâng niu trẻ dại cho gần đặng cha.

265.

Đưa giọt sữa ra hoà giọt luỵ,
Trong tình chung huyết khí đúc hình.
Còn con may đặng giữ tình,
Khối chung tình ở nơi mình ấu nhi.

269.

Nghe trẻ khóc như chì dần dạ,
Thấy con đau như đá đập đầu.
Còn con ô thước bắc cầu,
Mất con là cửa vô lầu lãnh cung.

273.

Thấy xuân đến vẻ hồng khắp chốn,
Nương con thơ sống rốn cùng xuân.
Ru con giọng hát ngập ngừng,
Xuân ôi! Xuân biết mấy lần đau thương?

277.

Ve kêu hạ như dường trêu thảm,
Mưa sầu tuôn mấy dặm biệt ly.
Dỗ con lệ ngọc li bì,
Hạ ôi! Hạ có biết nghì phu thê?

281.

Chiều thu nhắc ủ ê cảnh hạn,
Nhấp nhô xem cánh nhạn về non.
Trông thu rầu nhớ thân con,
Thu ôi! Thu biết hao mòn tấm duyên?

285.

Đông lạnh ngắt mảnh mền úm trẻ,
Ngồi đêm trường quạnh quẽ phòng không.
Nhớ chồng thấy trẻ não nồng,
Đông ôi! Đông biết tấm lòng kiên trinh?

289.

Vắng mặt chồng, cân hình của trẻ,
Ngó thấy con đặng vẽ tượng chồng.
Cân thương trẻ ấy mà đong,
Thì trong thương ấy, của chồng tám phân.

293.

Kìa máu huyết, cành xuân nhuỵ nở,
Khối ái ân đành ở nơi con.
Dầu cho biển cạn non mòn,
Tơ duyên khắn khít chỉ còn bấy nhiêu.

297.

Trẻ nhỏ dại lắm điều học hỏi,
Thường kiếm cha mong mỏi thấy nhau.
Dỗ con chỉ bóng giải sầu,
Rằng khuya đèn thắp cha hầu về thăm.

301.

Hơi mảnh áo còn cầm đặng ngữi,
Gối loan gìn từ buổi kết duyên.
Ba sanh dầu toại thửa nguyền,
Hoạ trong giấc mộng giải phiền giao hoan.

305.

Càng bạc phước càng than con dại,
Lo tảo tần mảy mạy dưởng nuôi.
Còn cha con tỷ như côi,
Chít chiu trẻ khó, bồi hồi mẹ đơn.

309.

Nhịn ăn mặc ngừa cơn thiếu thốn,
Làm lụng nhiều nuôi dưỡng sắp con.
Nại chi xác yếu thịt mòn,
Gia tư miễn đặng vuông tròn giữ duyên.

313.

Lớn một tuổi, mẹ thêm một khổ,
Hiểu một điều, mẹ hổ cho thân.
Trí con lần mở nẻo gần,
Hỏi cha sao phụ, tố trần làm răng?

317.

Chẳng lẽ nói cho chàng đen bạc,
Chẳng lẽ cho cỡi hạc quên nhà.
Không đành nói thác ra ma.
Không đành nói ngụ nơi nhà lầu xanh.

321.

Không lẽ nói mến anh quên én,
Không lẽ rằng trộm nén hương thừa.
Nói chi tìm vợ dâng dưa,
Lẽ nào nói rượt theo vừa Hằng Nga.

325.

Không lẽ nói đi qua Đông Độ,
Không lẽ rằng vô số chinh phu.
Lẽ nào nói bị tội tù,
Lẽ nào nói trấn Tây Âu làm hoàng.

329.

Còn nói thiệt rằng chàng phụ thiếp,
Cũng vì mê theo kiếp làng chơi.
E con đến lớn nên người,
Gương cha để thẹn những lời bợm hoang.

333.

Riêng chịu thảm không than với trẻ,
Đổ luỵ rơi theo khoé miệng cười.
Vui là gắng gượng làm vui,
Cái vui cùng trẻ là hồi ai bi.

337.

Ngàn dâu ngó ngày chầy thăm thẳm,
Bận lòng con lại vấn nô y.
Xem chừng coi mảnh anh nhi,
Co tay đếm tuổi bấy chầy không cha.

341.

Hột cơm tẻ nhai ra như cát,
Gan còn nguyên như nát bao chừ.
Nuôi con từ lúc đào thư,
Bao nhiêu máu thịt công chờ bấy nhiêu.

345.

Chàng đâu rõ khúc khiu cực nhọc,
Lớn khôn ngoan biết học biết hành.
Biết ơn nuôi dưỡng sanh thành,
Tìm cha lại bỏ một mình thiếp côi.

349.

Càng thấy lớn, mầng rồi lại sợ,
Mầng nên hình, còn sợ theo cha.
Dường như con vịt mẹ gà,
Trẻ thơ vội phản, mụ già kinh tâm.

353.

Làm lụng té bao lăm của cải,
Để cho con làm ngãi cùng con.
Nỗi lo đôi lứa vuông tròn,
Còn lo gia thất vĩnh tồn hậu lai.

voh-tho-doan-thi-diem-2

Phần 3: Dạy con trai về nhơn đạo

357.

Định hương hoả, hằng bày quí tế,
Lập pháp gia, tự kế phụng thờ.
Con chàng thiếp trả khi thơ,
Dòng chàng thiếp dạy phụng thờ tổ tông.

361.

Lựa cho học các công các nghệ,
Tính cho hay mọi vẻ văn tài.
Sĩ, Nông, Công, Cổ sanh nhai,
Ngư, Tiều, Canh, Mục làm bài bảo thân.

365.

Hễ phải mặt văn nhân tài tử,
Dạy con nên vẹn giữ nhơn luân.
Văn là thượng sĩ danh thần,
Võ thì bạt tuỵ siêu quần quân trung.

369.

Quan thì phải tận trung vì chúa,
Dân thì hay tập búa Lỗ Ban.
Sang thì giữ vững ngai vàng,
Hèn thì trừ đảng bạo tàn hại dân.

373.

Trọng thì lấy đai cân làm lịnh,
Khinh thì lo trừ nghịch làm duyên.
Nước non để tuổi cùng tên,
Quốc gia khinh trọng bở bền nơi dân.

377.

Con thương mẹ dầu vâng lịnh dạy,
Thương quê hương trọng ngãi quân thần.
Ngọn rau tấc đất là ân,
Một dòng một giống lo cần ích chung.

381.

Nếu đề đặng tinh trung hai chữ,
Vạch lưng con viết thử để dành.
Rủi cơn loạn quốc khuynh thành,
Tấm gan liệt sĩ cũng đành độ dân.

385.

Dầu rủi phận nợ thân chẳng vẹn,
Đạo Cần Vương nêu tiếng thanh cao.
Trung thành giữ cõi Nam trào,
Hùng anh trước đặng Nguỵ Tào khiếp oai.

389.

Trước quốc chánh chia hai tộc chủng,
Núi Hoành sơn định phỏng biên cương.
Bắc Nam hiệp Tổ Hùng Vương,
Xúm nhau nâng nổi miếu đường Việt Nam.

393.

Giang san bốn ngàn năm tổ nghiệp,
Văn hoá so cũng kịp tha bang.
Xa thơ nay gãy giữa đàng,
Con tua giữ dạ cứu nàn giúp nguy.

397.

Nào quốc thể, người khi kẻ thị,
Nào dân đen, phép quỉ hớp hồn.
Nấu sôi cái máu anh phong,
An bang tế thế một lòng lo âu.

401.

Đấng nam tử đâu đâu cũng nợ,
Khắp năm châu khai mở qui mô.
Châu lưu tứ hải ngũ hồ,
Thơ hương đắc vận cậy nhờ dân sanh.

405.

Vùng Nam Hải uy linh nhứt quốc,
Cỏ rẽ hai chia đất rấp ranh.
Trời còn roi nước hùng anh,
Giang sơn là đấy, còn mình ở đâu?

409.

Con cũng đứng mày râu dưới thế,
Nếu kém phương thiếu thế vận trù.
Dầu khôn, mẹ cũng cho ngu,
Tài chi trong kiếp tội tù dã man.

413.

Con phải nhớ da vàng máu đỏ,
Cõi Nam Châu rỡ rỡ quốc triều.
Con Hồng cháu Lạc bao nhiêu,
Thiếu tài khiếm đức, định triều an bang.

417.

Mẹ dầu phải suối vàng nhắm mắt,
Vui thấy con đáng mặt làm trai.
Nhục con, con chịu chớ nài,
Nhục cho quốc thể ra tài hy sinh.

421.

Thất xã tắc, dân mình nghịch chủng,
Quen nghề tham, lại nhũng quan gian.
Sâu dân mọt nước bạo tàn,
Mua quan bán chức nhộn nhàng cân đai.

425.

Đem chơn chánh phô bày trừ mị,
Nâng niu cho dân khí lẫy lừng.
Dân thì biết phận làm dân,
Chúa cho đáng chúa, đình thần đáng quan.

429.

Trừ đảng dữ tham gian bạo ngược,
Diệt những phường mưu chước cầu vinh.
Xem dường cuồng khấu biên đình,
Cung dâu tên cỏ, nước mình chấn hưng.

433.

Xem lịch sử vĩ nhân mấy mặt,
Đại trượng phu trước giặc vong thân.
Nên danh khai quốc công thần,
Nêu tên hậu thế xa gần tặng phong.

437.

Muốn hiển tổ vinh tông báo hiếu,
Học cho hay trọng yếu miếu đường.
Tầng quen cỡi ngựa cầm cương,
Trận trung quyết thắng chiến trường đoạt binh.

441.

Lựa những mặt tài tình thọ giáo,
Học cho thông mối đạo quân thần.
Trương Lương dâng dép ba lần,
Chút công ấy định Hớn Tần nên hư.

445.

Trọng Ni nhận vi sư Hạng Thác,
Học tinh thần khai phát Nho tông.
Gẫm coi tổn bấy nhiêu công,
Làm cho thiên hạ đại đồng trí tri.

449.

Tôn kỉnh thầy cũng bì cha trẻ,
Mới đắc truyền mọi lẽ cao sâu.
Học hay kế nhiệm mưu mầu,
Học nên tài đặng giải sầu quốc gia.

453.

Học đặng định chánh tà giả thiệt,
Học cho thông đặc biệt hư nên.
Học gan sắt đá cứng bền,
Học cho đủ chước xây nền Nam phong.

457.

Học cho rộng giao thông tứ xứ,
Học cho cùng xử sự ngoại lân.
Học cho đúng bậc tài thần,
Ưu quân ái quốc vua cần dân nghinh.

461.

Học cho thấu máy linh cơ tạo,
Học cho toàn trí xảo văn minh.
Thâu tài hay nhập nước mình,
Làm cho dân hưởng thái bình giàu sang.

465.

Công dạy dỗ muôn ngàn khó nhọc,
Ơn của thầy con học nên người.
Tài hay tom góp một đời,
Cho con chẳng kể vốn lời hơn thua.

469.

Thầy lao lực tuỳ vừa trí trẻ,
Dạy cho thông mọi lẽ gần xa.
Tuổi xanh con đặng trí già,
Còn thơ con học hoá ra lão thành.

473.

Con nhờ thầy công danh mới toại,
Như nhờ cha mới giỏi hình dung.
Hai ơn ấy gẫm so đồng,
Nghĩa kia như hiếu, mặn nồng cả hai.

477.

Xưa ruộng Thuấn voi cày chim cấy,
Vì hiếu thân nổi dậy tuổi tên.
Đế Nghiêu tìm hiếu truyền hiền,
Nương nơi gương ấy vẫn bền đạo con.

481.

Mẫn Tử Khiên tích còn roi dấu,
Dẩy xe cha áo xấu mặt dơ.
Sợ đàn em dại u ơ,
Khổ thà cam khổ cũng thờ dưỡng nghi.

485.

Con ví biết trọng nghì phụ tử,
Hiển tông môn khá giữ nơi lòng.
Đừng làm nhục tổ hổ tông,
Lập thân trả hiếu nối dòng truyền hương.

489.

Nhìn thung đường đền ơn cúc dục,
Nhớ công sanh giữ chút hình hài.
Dưỡng nuôi lao khổ đắng cay,
Lửa hương chỉn ước có ngày nối xa.

493.

Còn em út trong nhà thơ bé,
Trai dạy khuyên, gái để khép khuôn.
Con đừng quen tánh luông tuồng,
Các em hư nết, gieo buồn song thân.

497.

Một cục máu chia phân mấy mảnh,
Hình hài em tượng ảnh thân con.
Chữ rằng huyết mạch đồng môn,
Riêng chưng thân thể, tâm hồn cũng con.

501.

Ngoài gia tộc, nước non vầy bạn,
Lựa tài danh giao cạn tâm tình.
Đời như trận giặc đua tranh,
Dầu tài một ngựa một mình khó nên.

505.

Coi gương trước Thánh Hiền ghi lại,
Kết bạn nhau đạo ngãi làm sao.
Tuy là khác thửa đồng bào,
Mà trong sanh tử một màu sắt son.

509.

Lưu Quan Trương giữ còn nghiệp Hớn,
Gìn trọn thề chết sống có nhau.
Dầu cơn độc mã đơn đao,
Tâm trung nghĩa khí, Ngô, Tào cũng kiêng.

513.

Sài Triệu Trịnh cũng nguyền như thế,
Mà nên mưu đủ kế đồ vương.
Tống thâu thiên hạ Đại Đường,
Cũng do bởi học nơi trường hữu giao.

517.

Trong vũ trụ hiệp hào là mạnh,
Phận đồ thơ phải gánh non sông.
Anh em bạn tác vầy đông,
Xô thành cũng ngã, lấp sông cũng bằng.

521.

Trai nam tử gió trăng là phận,
Đạp nước non đặng tấn khí hùng.
Đi con đường thế gai chông,
Lớn gan hiu quạnh thì lòng cũng nao.

525.

Tình phu phụ biết bao nghĩa trọng,
Đạo nhơn luân gầy sống của đời.
Dầu cho non nước đổi dời,
Còn niềm chồng vợ, còn người còn ta.

529.

Bạn trăm tuổi thân hoà làm một,
Dầu sanh hèn xấu tốt cũng duyên.
Cùng nhau giữ vẹn hương nguyền,
Cái duyên kinh bố là duyên Châu Trần.

533.

Con đừng thấy phụ nhân nan hoá,
Cầm hồn hoa vầy vã thân hoa.
Vợ con thay phận mẹ già,
Nuôi con mẹ cậy bóng ngà nữ dung.

537.

Khi tối sớm lạnh nồng có kẻ,
Thân mật con đặng dễ giữ con.
Mẹ lo trong lúc còn non,
Vợ con lo lúc thân mòn gối run.

541.

Nếu khổ cực chung cùng chia sớt,
Dầu sang vinh đừng bớt tình nồng.
Hễ là vào đạo vợ chồng,
Hư nên đều có của ông công bà.

545.

Con chớ ỷ mình là nam tử,
Chiếm chủ gia hẹp xử thê nhi.
Đừng xem ra phận tiện tỳ,
Quyền trong nội trợ cũng bì đồng nhau.

549.

Ai nâng đỡ khi đau lúc ốm,
Ai dù tròn nắng sớm mưa mơi.
Tình chung bền giữ một đời,
Chia cơm cắn muối không dời lòng thương.

553.

Áo trâu đắp đông sương lạnh lẽo,
Cửa hấp gà mở nẻo tiễn phu.
Lập thân đừng để danh lưu,
Cũng như Bá Lý Hề âu bạc tình.

557.

Chém vợ để cầu vinh thuở trước,
Ngô Khởi còn gian ngược chi danh.
Con đừng mượn nét khuynh thành,
Lợi thân mà hại đến mình hồng nhan.

561.

Đừng sang trọng phụ phàng nghèo khó,
Gặp hầu xinh vội bỏ thê hèn.
Cá kia chung chậu hơi quen,
Ái ân đầm thấm bởi bền nghĩa nhân.

565.

Gương đẹp đẽ Mãi Thần thuở trước,
Trọng nhơn luân sau phước nên quan.
Hiền danh ghi tạc giang san,
Nghĩa trung đi cặp con đàng trượng phu.

569.

Tống Hoằng chí trượng phu không đổi,
Giữ nhơn luân sợ lỗi đạo hằng.
Từ duyên công chúa giao thân,
Đút cơm vợ quáng ân cần dưỡng nuôi.

573.

Biết tình nghĩa biết mùi ân ái,
Chia đau thương cột dải đồng tâm.
Kìa ai đã gọi ân thâm,
Hơn niềm chồng vợ âm thầm giúp nhau.

577.

Đừng đến lúc ốm đau chẳng ngó,
Hương sắc xinh lại bỏ hoa tàn.
Những là anh én nhộn nhàng,
Buôn duyên bán nợ như hàng chợ đông.

581.

Có chi trọng đàn ong xóm bướm,
Nơi phồn ba đậm nhuộm màu gian.
Đừng quen kết lũ vầy đoàn,
Cửa thanh lâu những rộn ràng gió trăng.

585.

Giấc phong nguyệt xem bằng tuý mộng,
Vợ cùng hầu so sóng đồng thương.
Nhỏ thì trọng, lớn thì nhường,
Nơi cân quân tử ra trường đánh ghen.

589.

Coi thân vợ như em nhỏ dại,
Đem lòng yêu phận gái đơn cô.
Đặng chồng dường thể đặng mồ,
Chôn thây cửa lạ, cậy nhờ ở ai?

593.

Phải tôn kính cành mai đương nở,
Đừng xa hoa làm mớ hàng chơi.
Sánh mình mỏng mảnh thương người,
Rủi sanh phận gái khó cười với thân.

voh-tho-doan-thi-diem-3

Phần 4: Dạy con gái về nhơn đạo

597.

Gái mẹ dạy ân cần cho lắm,
Đừng để mình luỵ đến sông Tương.
Bông dầu đẹp, khá gìn hương,
Quí chi liễu ngõ hoa tường trao duyên.

601.

Đóng chặt cửa giữ nguyên trinh tiết,
Trọng thân danh bền nét đào yêu.
Phụng lầu gác quyển chờ tiêu,
Gieo cầu cho đáng, nhiễu điều gói gương.

605.

Đừng đứng dựa sông Tương nhắn khách,
Đừng trông trăng hỏi ngạch Cung Thiềm.
Đừng đề thi lá thơ chim,
Cầu hôn để phụng đến tìm cung loan.

609.

Con khá nhớ hồng nhan phận mỏng,
Đừng làm cho thẹn bóng trăng xuân.
Hồng quần tài sắc đa truân,
Vào vòng bạc phận, chi mong trọn nguyền.

613.

Hoa phong nhuỵ cung Tiên cũng mến,
Gấm lót đường trọng tiếng cũng nhơ.
Nhà vàng phận quí khi thơ,
Gót sen dầu lịch cũng nhờ vẻ xuân.

617.

Đừng cho nhiễm lấm thân thục nữ,
Chốn phòng the cứ xủ rèm là.
Vườn thu giấu dạng Hằng Nga,
Hải đường nở muộn mặn mà ái phong.

621.

Phàm phận gái đứng hàng khuê các,
Phải trau tria tướng hạc hình mai.
Chín tầng cửa đóng then gài,
Ra ngoài nghiêm nghị, trong bày đoan trang.

625.

Đối với khách đồng bàn đồng tuổi,
Nhớ cho hay lời nói giọng cười.
Ngôn từ ngọt dịu thanh tươi,
Tiếng tiêu khải phụng phục người mới ngoan.

629.

Gặp cơn rảnh nhà lan vắng khách,
Công chỉ kim, đèn sách học hay.
Trăm nghề dầu chẳng đủ tài,
Dệt văn Tô Huệ gỡ đày chinh phu.

633.

Sửa từ nết ngày thâu tập tánh,
Trăm hạnh hay bởi tránh điều thô.
Xấu xa rách rưới loã lồ,
Đoan nghiêm tánh đức cũng cho gái lành.

637.

Còn đương thuở tuổi xanh thơ bé,
Rán theo cha học lễ học văn.
Phép xưa tùng phụ đã rằng,
Dựa thân cội tử đợi hàng trượng phu.

641.

Thánh xưa dạy từ câu nói hiếu,
Đạo thờ thân chầm khíu nên kinh.
Tích xưa nhắc đến Đề Oanh,
Thương cha nên phải bán mình kêu oan.

645.

Bến nước gái mơ màng trong đục,
Đếm mười hai hoạ phúc khó lừa.
Xem cha cư xử mà ngừa,
Phòng sau cho khỏi đổ thừa lỡ duyên.

649.

Cao niên biết tuyển hiền đáng mặt,
Khỏi lầm mưu kẻ giặc phong tình.
Sự đời thấu rõ dạng hình,
Trá ngôn lánh chước gia đình pháp nghiêm.

653.

Đợi nơi cửa khách tìm thức ngọc,
Đừng đỗ đường rời bốc đoá hoa.
Trông người so sánh với ta,
Lường tài cân sắc hiệp hoà mới nên.

657.

Ai nam tử giữ bền tơ tóc,
Nhiều người hay lừa lọc câu thề.
Trước khen sau ắt có chê,
Ghi tâm tánh đức, kiếm bề phụ nhau.

661.

Rủi để khách tóm thâu tiết hạnh,
Tránh không qua nhẹ tánh nghi ngờ.
So mình nắm dễ tóc tơ,
Ngoài ra còn lắm hẫng hờ lứa đôi.

665.

Nét xuân sắc mấy hồi là trọng,
Xuân lỡ rồi khó mộng xuân nguyên.
Thà cho đáng mặt thuyền quyên,
Đừng làm cầm sắt ra duyên bĩ bàng.

669.

Khi gặp đặng phải trang tài mạo,
Hoặc trao trâm đắp áo làm tin.
Thì toan giữ vẹn chung tình,
Đưa thoi đừng để lỗi mình nữ trung.

673.

Đến lúc đã chung phòng hoà hiệp,
Phải tùng phu là phép xưa nay.
Mạnh Quang tích trước ghi tài,
Tề mi vẹn đạo chẳng nài khổ thân.

677.

Vợ Châu Công đình thần mạng phụ,
Ở thôn quê lam lụ làm ăn.
Chồng thì triều nội cao sang,
Vợ lo canh cửi cơ hàn tấm thân.

681.

Giúp chồng trọn ân cần nhiếp chánh,
Mới nên trang chúa thánh tôi hiền.
Vợ không tham nhũng kim tiền,
Chồng lo trọn đạo nắm quyền chăn dân.

685.

Phạm trọng Yêm mấy lần xa vợ,
Nợ quân vương nhiều thuở truân chuyên.
May duyên gặp đặng vợ hiền,
Thanh liêm chánh trực giữ bền lòng son.

689.

Phải căn nợ cách non cũng gặp,
Lỡ trái duyên vội gấp ra hư.
Con xem từ trước đến chừ,
Đấng anh hùng gặp anh thư mấy người?

693.

Dầu đẹp xấu để đời luận biện,
Vui duyên con, thân miễn an vui.
Đừng chê chồng phận thiệt thòi,
Đáng danh quân tử phải người lang quân.

697.

Chữ hằng dạy thanh xuân bất tái,
Vợ người rồi danh gái hết kêu.
Noi gương đức tánh Nhị Kiều,
Dở dang Du Sách, giữ điều tiết trinh.

701.

Hễ thất nghĩa rẻ khinh kim cải,
Khó tưới hoa trở lại thanh tươi.
Hư nên cũng có một đời,
Hay chi thay đổi nhành mai sái mùa.

705.

Tri âm ví đáng dây cầm nguyệt,
Đừng đem tình chí thiết giao hoan.
Căn duyên dầu có phụ phàng,
Cũng do tiết giá mở đàng ngại lo.

709.

Trai bảy thiếp cũng cho chẳng hại,
Gái lộn chồng đã hoại tánh danh.
Con coi phận mẹ mỏng mành,
Chánh thê nay lại sánh mình thứ thê.

713.

Muốn còn phước dựa kề quân tử,
Phải hạ mình đặng xử vuông tròn.
Chia chồng vì dạ sắt son,
Nhịn chồng bởi chút sắp con cái nhà.

717.

May tiểu thiếp biết hoà biết thuận,
An thân chồng đẹp xứng nợ duyên.
Rủi ro gặp gái bán thuyền,
Loạn gia phải chịu thảm phiền lắm cơn.

721.

Thà thấy dạng còn hơn hiu quạnh,
Nên cắn răng nhịn nhín tình thương.
Ai đời thắt dạ mà lường,
Bưởi bòng bụng gái vẫn thường giống nhau.

725.

Cội thung thấy càng cao tuổi hạc,
Nhớ liễu mai chếch mác mà đau.
Trường đình giục thảm canh thâu,
Gối còn nửa nguyệt đỡ đầu phòng thu.

729.

Con quốc quốc chưa âu đổi bạn,
Máu đổ quyên đợi mãn kiếp sanh.
Trượng phu hà hải đã đành,
Nỡ nào đày thiếp một mình tương tư.

733.

Chiêu Quân chịu giã từ đất Hớn,
Thân cống Hồ ngất ngưởng tha bang.
Thiếp nay cũng giống như nàng,
Thân Hồ tâm Hớn đôi đàng khó nguyên.

737.

Còn Tinh Vệ lấp phiền biển ái,
Đòi trả chồng hà hải sóng chôn.
Thiếp thân như ốc mượn hồn,
Sống không biết sống, chết còn ngậm đau.

741.

Nơi Phiên quốc xôn xao lượng thảm,
Hạnh Nguơn xưa đã dám hy sinh.
Cũng như thiếp nặng khối tình,
Gãy trâm Lương Ngọc, bể bình Lý Uyên.

745.

Dầu chàng có vui riêng quên thiếp,
Thiếp cũng lo tội nghiệp thân chàng.
Đậm hương cho toại hồng nhan,
Gẫm thân có lúc khốn nàn ốm o.

749.

Thương chi thật con đò đưa khách,
Nghĩa chi nồng những cách bán duyên.
Còn thân còn mến còn quyền,
Hết ưa hết chuộng thì duyên hết nồng.

753.

Đây còn nỗi bế bồng thêm trẻ,
Hễ giao tình chẳng lẽ không con.
Hai vai gánh nặng thân mòn,
Cơn đau thất nghĩa, hầu hờn giảm thương.

757.

Chẳng như thiếp nhớ ơn giải cấu,
Mến từ khi mở nụ đào yêu,
Trăm cay ngàn đắng cũng chiều,
Quí thân quân tử, dám liều với thân.

761.

Rẻ rúng bấy, hễ cân cũng trọng,
Quí bao nhiêu, hờ hững cũng khinh.
Chàng thì nhẹ thể vì tình,
Thiếp thì lo sợ luỵ mình trượng phu.

765.

Niềm âu yếm ai đâu rõ giá,
Vui trăng hoa dối trá là thường.
Ân nhờ, ở tạm, mua thương,
Tiếc chi những thói hoa tường buôn ong.

769.

Trông tin nhạn về đông mòn mỏi,
Thả lá hồng biết hỏi nơi ai?
Khối sầu càng chất càng dày,
Chờ năm, năm lụn, đợi ngày, ngày qua.

773.

Soi kính cũ mặt hoa đã nhíu,
Tóc hoa râm mày liễu ướm sương.
Mùi chê dưới mắt chán chường,
Còn duyên chi mộng đến đường tái hôn.

777.

Thôi đành gởi tâm hồn gió tuyết,
Theo nương con cho hết tam tùng.
Hoặc là tròn nghĩa thuỷ chung,
Hoặc là chia dạ não nùng với con.

781.

Ngắm đường thế đã mòn vinh nhục,
Đổi thay duyên đặng phúc hạnh gì.
Lánh buồn lại lạc lối bi,
Rẻ duyên kim cải, đem bì phấn hương.

785.

Liếc mắt ngó vào trường phong nguyệt,
Mua trận cười nào tiếc ngàn vàng.
Chừng cơn phấn lạt hương tàn,
Núm mồ bạc mệnh bên đàng cỏ chôn.

789.

Nào những khách đoạn trường kim cổ,
Bởi trái duyên nên lỡ gót trần.
Bán xuân khi đắt giá xuân,
Thu qua để thẹn hồng quần biết bao.

793.

Hỏi đến khách sớm đào tối mận,
Đon những trang ngọc cận hương thân.
Tầng nghe giá tuyết trong ngần,
Cớ sao bị nhiễm phong trần bởi đâu?

797.

Bởi thuyền bá sóng xao biển ái,
Bởi non thề sương trải lạnh lùng.
Bởi chàng phụ tấm tình chung,
Bởi tơ duyên cũ, tơ hồng hết xe.

801.

Bởi nhan sắc không khoe không mặn,
Bởi hơi đồng không thẳng không kêu.
Bởi quen mùi vị phòng tiêu,
Bướm ong kiếm dựa vườn điều đổi hương.

805.

Bởi hoa chạ bên đường dễ hái,
Bởi buôn hương nặng ngãi nhiều nhơn.
Đờn hay vặn lắm trục lờn,
Đổi hơi cầm sắt ra trường ca xang.

809.

Bởi vào trướng ra màn hết vị,
Bởi ngồi lơn lên kỷ hết nồng.
Nên ưa mèo mả gà đồng,
Bỏ hình loan phụng dựa lồng chim xanh.

813.

Bởi mến cảnh đôi cành đài liễu,
Bởi ưa hoa bận bịu đài hoa.
Bởi ham nguyệt rạng lánh nhà,
Đèn chong buồn bực lập loà rèm thu.

817.

Bởi quen mặt đào châu bớt đẹp,
Bởi nhìn thường hoa ép liễu nài.
Chê vành xuân hết bịu mai.
Kiếm đường hỏi liễu Chương đài bao mươi.

821.

Bởi cửa tía bóng trời nồng nực,
Bởi hiên thu gió chật đường ong.
Cánh hồng quen với cuồng phong,
Nước non thế giới vẫy vùng tinh trăng.

825.

Bởi cung Quảng bóng Hằng nhấp nhoá,
Bởi đền Ngô nghe gã Tây Thi.
Bởi ham bóng sắc hơn chì,
Mỹ nhân thấy dạng kể gì đến duyên.

829.

Quen xa mã chê thuyền là chậm,
Đã mùi chàm gọi thắm là hơn.
Ca hay quên hẳn giọng đờn,
Một đêm tuý mộng sánh hơn gặp vàng.

833.

Nơi tửu điếm nhà lang khác hẳn,
Vợ chồng thường ít sẵn chiều thương.
Trà mi kém sắc hơn hường,
Tiếng cười Bao Tỷ hơn hờn Phan Vương.

837.

Thiếp biết phận cánh buồm dưới gió,
Đã khổ đời chịu khổ cùng đời.
Thuyền nan sợ sóng dòng khơi,
Khúc quanh eo hẹp, chiều thời khúc quanh.

841.

Soi bóng nước đặng nhìn thấy dạng,
Thấy nghi dung hết mặn nét ngài.
Chẳng còn yểu điệu hình mai,
Da mồi tóc đã ướm thay nửa vàng.

845.

Mảng gượng vui cùng đàn cháu dại,
Chỉ lời hay sự phải khuyên răn.
Tóc xanh là bạn mày nhăn,
Nên ba dạy cháu biết bằng năm mươi.

849.

Khóc của mụ pha cười của trẻ,
Chậm của già đổi lẹ của tơ.
Ngắm coi cái nhỏ bây giờ,
Nhớ trong cái lớn mịt mờ chiêm bao.

853.

Nương con gậy ra vào lụm cụm,
Lưng gối dùn lửng thửng bước đi.
Thôi gần hết kiếp còn gì,
Co tay đếm tuổi quá kỳ tri Thiên.

857.

Bỗng tiếng sấm gần bên tai nổ,
Nghe tin chàng mệnh số du Tiên.
Ôi thôi trời động đất nghiêng!
Chết chàng hồn thiếp chơi miền Âm cung.

861.

Khi tỉnh giấc còn trong vòng tục,
Mới biết thân ít phúc hơn chàng.
Giá chi một mảnh xương tàn,
Đày cho thiếp nỗi đoạn tràng tử ly.

865.

Một thân goá tang y lại mặc,
Chống gậy lê nhúc nhắc đưa linh.
Đầu sương chất trắng khối tình,
Bao nhiêu ân ái trong mình tử thi.

869.

Ngó vạn vật cũng kỳ lẽ chết,
Nghe non sông như hết khí sinh.
Hỏi ta có sống thật tình,
Hay là giấc mộng Diêm đình đưa nhau.

873.

Xem cây cỏ như màu thảm đạm,
Ngó thú cầm dường cảm đau thương.
Đất nhà cảnh vật ruộng vườn,
Hình chàng như gắn nẻo đường vô ra.

877.

Kìa đào lý tàn già đã cỗi,
Nhắc tượng chàng dựa cội trông hoa.
Nào là trời lặn bóng tà,
Đêm khuya chờ lụng canh gà thăm em.

881.

Kìa cụm liễu gió đêm xao xác,
Đám chim chiều tìm mát nghĩ ngơi.
Đây là nơi thiếp trao lời,
Trăm năm khi hứa nửa đời buổi nay.

885.

Kìa đầu rừng chòm mai đua nở,
Trước xem màu hớn hở như nay,
Cớ sao như ủ như vày,
Hay là nhắc thiếp những ngày trao tơ.

889.

Kìa lũ én dật dờ cánh liệng,
Dựa chơn mây kêu tiếng nỉ non.
Cớ sao ngươi cũng vẫn còn,
Chồng ta thân mất hình chôn cớ nào?

893.

Bầy hồng nhạn lao xao vịnh liễu,
Đám cò ngà bận bịu gành khơi.
Là nơi lúc đứng khi ngồi,
Trông trăng hẹn biển, ngó trời thề non.

897.

Kìa đường cũ bước mòn lãng tử,
Đám thú nhà dụ dự bước chiều.
Đây là nẻo thiếp đến kêu,
Chàng vào kẻo trễ quá chiều bữa cơm.

901.

Kìa bến nước dập dồn sóng dợn,
Chỗ đôi ta vui giỡn khi thơ.
Cũng cây, cũng bãi, cũng bờ,
Mà sao buổi ấy bây giờ khác nhau?

905.

Kìa nhịp cầu bên đầu khe nhỏ,
Đông chòm cây, Tây có triền bưng.
Đây nơi đôi lứa gặp mừng,
Mà nay như nhắc mấy từng tương tư.

909.

Kìa chùa cũ nóc hư muốn sập,
Nơi đôi ta lén gặp gỡ nhau.
Cớ sao cảnh tịnh úa xào,
Hay là thấy thiếp mà sầu lẻ loi.

913.

Bóng hải đường ta ngồi buổi nọ,
Bồng con thơ tìm ngõ nhà thầy.
Còn am tự, còn chùa mây,
Mà chàng đâu vắng, chốn nầy lặng trang.

917.

Kìa cuối xóm mấy hàng trước tử,
Nọ đầu làng chày lữ phơi sương.
Đây là nơi thiếp đến thường,
Thăm chàng đang học nơi trường sân ngô.

921.

Kìa xóm rẫy nấm mồ lố xố,
Nơi đôi ta tảo mộ đạp thanh.
Gò đâu phút nổi thình lình,
Nào dè chàng cũng đến giành một nơi.

925.

Để thân thiếp mình ngồi hiu quạnh,
Còn thây chàng tuyết lạnh nắng nồng.
Đã đành bẻ gãy chữ đồng,
Chia đôi thiếp xóm chàng đồng không hay.

929.

Tiếng oan ương bên tai dan díu,
Gió đẩy đưa bờ liễu lao xao.
Lạ nghe lời vật thế nào,
Mà ra như tiếng chàng chào buổi xưa.

933.

Nhành dâu khuất, bóng đưa mờ mệch,
Cội tà dương như hết reo chiều.
Hương tàn gió tối hiu hiu,
Dở chơn hỏi nợ buổi chiều nghỉ đâu?

937.

Ai sau gót giây lâu như nói,
Xin người thương tha lỗi khi xưa.
Giận đem đổi nhớ cũng vừa,
Trách mình nào có đổ thừa phụ duyên.

941.

Phải buổi trước đừng phiền đừng oán,
Để nguyên tình uống cạn chén tình.
Làm chi rẽ nợ ba sinh,
Mà nay phải chịu một mình riêng thương.

945.

Tội chàng trước tiêu dường tuyết giá,
Còn thiếp mang trọn cả lỗi chàng.
Lời phiền đổi lại tiếng than,
Thương kia bao nả lại càng thêm thương.

949.

Đời vắn ngủn huỳnh lương in giấc,
Kiếp phù sinh đặng thất nơi thân.
Còn thân sống chịu phong trần,
Dứt hơi dầu muốn trọn gần cũng xa.

953.

Nếu thiếp trước biết hoà biết thuận,
Nhẫn ghen tương nhịn lẫn ân tình.
Chia thương ơn ấy đã đành,
Thứ thê chánh thiếp giựt giành chi duyên.

957.

Giọt lệ thiếp vì phiền mà chảy,
Gẫm thương người chia dải đồng tâm.
Ta than lỗi bậc cung cầm,
Nàng sầu lạc nhạn ngư trầm biển mê.

961.

Vắng mặt chàng thiếp về kiếm kẻ,
Chia tương tư đặng để nên tình.
Vì chàng thiếp kết bố kinh,
Giữ câu hải thệ sơn minh với nàng.

965.

Mảng sầu muộn ngổn ngang trăm mối,
Chùa thu không bóng tối mịt mờ.
Oanh về tổ, dế reo tơ,
Đường về vắng bước như tờ canh khuya.

969.

Tiếng U Minh tía lia gợi thảm,
Giọng kình khua cửa Phạm dập dồn.
Câu kinh tiếng kệ gọi hồn,
Kêu thương khách tục, giải lòng người nhân.

973.

Rốn để bước đến gần điện Thánh,
Nhìn tượng thờ lại ngảnh thân mình.
Sao đó hiển, sao đó linh,
Phải chăng trước cũng luỵ tình như ta?

977.

Đau đớn thế nắn ra tượng Phật,
Lánh khổ nên vụ tất cửa không.
Biết chăng cái thảm mất chồng,
Xin cho thiếp dựa nơi lòng từ bi.

981.

Hay sợ khổ sanh ly tử biệt,
Nên tìm phương dứt tuyệt nợ đời.
Biết chăng tình ái của người,
Xin cho thiếp hiểu ít lời chơn ngôn.

985.

Hay đã sợ thân mòn gối mỏi,
Mến ngày xuân mà tuổi không chờ.
Linh đinh bể khổ dật dờ,
Xin cho thiếp gởi thân nhờ cửa không.

989.

Hay đã sợ nắng nồng tuyết lạnh,
Cảnh đau thương khó lánh thân phàm.
Thuyền tình chịu sóng không kham,
Xin cho phận thiếp biến làm ni cô.

993.

Buồn tình lóng nam-mô câu tụng,
Nhìn tượng cây rồi khủng cho thân.
Thân còn nương giữa phong trần,
Khổ kia còn đếm mấy lần mới thôi.

997.

Rón rén trước Phật ngồi cúi gật,
Mấy lạy trình mấy nấc tương tư.
Mảnh thân xin gởi bấy chừ,
Nương theo thuyền huệ vào bờ Tương giang.

1001.

Lui chân kiếm con đường nhà nội,
Lửa đốm nhen dẫn lối thảm trang.
Mắt xem cái cảnh điêu tàn,
Lòng thương dường đổ dẫy tràn khắp nơi.

1005.

Tiếng dế giống như lời chia thảm,
Ngọn đèn khuya nhấp nhoáng mùi thương.
Thương vì trong kiếp đoạn trường,
Cùng căn là chết ấy đường xưa nay.

1009.

Một ngày sống là bày bước chết,
Sợ chết nên không tiếc sống thừa.
Đời không mến, thế không ưa,
Lòng thương nẩy nở cho vừa tốt tươi.

1013.

Vì sợ chết mà người kiếm sống,
Trong căn oan lại mộng tầm duyên.
Già hay sợ, thế nên hiền,
Khuyên đau giải thảm cổi phiền của ai?

1017.

Một vật nhỏ cũng mài cũng gọt,
Của dầu hèn cũng mót cũng cằn.
Giá kia nào kể nên chăng,
Tay chân chàng để cũng bằng báu châu.

1021.

Thấy ai thảm lòng đau ái ngại,
Nghe kẻ sầu như cháy lòng thương.
Lau giọt lệ, giải tai ương,
Chia cơm nhịn muối đỡ đường khó khăn.

1025.

Thấy ai thảm lòng vàng xót xáy,
Nghe kẻ sầu như cháy tâm can.
Lau giọt thảm, giúp tai nàn,
Nâng hình quân tử với hàng luỵ chung.

1029.

Khi ghen ghét không cùng hiệp mặt,
Nay thấy nhau mà bắt động tình.
Hơn chi giành én giựt anh,
Thước cưu khuất bóng dựa cành chung nhau.

1033.

Xem nét thảm, nàng đau như thiếp,
Trông tình chung mòn kiếp hồng nhan.
Phăng tâm dòm mảnh đoạn tràng,
Thì trong mấy khúc của nàng như ta.

1037.

Sầu đã cháy mặt hoa ủ dột,
Thảm đã tràn hình cốt héo don.
Xuân mai ba bảy đã mòn,
Cội thu thêm nảy mấy hoàn anh nhi.

1041.

Tay bồng con, tay thì dìu trẻ,
Cảnh gia đình quạnh quẽ không ai.
Hương thề để trước vị bài,
Châm đề thấy rõ những ngày biệt phu.

1045.

Cặp liễn tang còn câu long ám,
Hạc qui hồi lãnh đạm trần ai.
Quả như chàng có chốn nầy,
Tưởng khi đổ luỵ châu mày với duyên.

1049.

Hỏi đon thử lời nguyền buổi trước,
Gẫm thân nàng bạc phước như ta.
Oán hình liễu, ghét mày hoa,
Kiếp tu mỏng mảnh mới là nữ nhi.

1053.

Giọt luỵ đổ không chi ngăn nổi,
Thương thân nàng chung với thân mình.
Thương chàng đầy dẫy mông mênh,
Khối thương khó lấy gáo tình đem đong.

1057.

Đôi mặt cách mà lòng vẫn một,
Khác tông môn hài cốt hoà chung.
Thề nhau trọn kết dải đồng,
Cám ơn chàng giúp mặn nồng nghĩa nhân.

1061.

Chia gia nghiệp trong cơn khốn khó,
Hiệp đôi nhà con nhỏ làm chung.
Nầy là vẹn giống trọn dòng,
Nàng sanh thiếp dưỡng cũng đồng như nhau.

1065.

Lập gia thất làm giàu con trẻ,
Định lứa đôi đủ thế cùng đời.
Nàng thì an phận an nơi,
Con thì đáng mặt đáng người với ai.

1069.

Khi thong thả đặt bài trẻ học,
Lấy gương già gợi chọc sắp con.
Nhìn non chỉ nước làm hơn,
Mượn bầu tuế nguyệt giải hờn căn sanh.

1073.

Cỏ huyên cắm kềnh kềnh đầu tuyết,
Con gậy lê mòn khuyết nửa cây.
Mắt mờ thêm nỗi lảng tai,
Thất tuần đã quá từ ngày ấu xuân.

Phần 5: Phụ nữ trên con đường tâm linh

1077.

Dò đon hỏi bước rừng thiền cũ,
Rằng Phật còn ngụ ở Lôi Âm.
Tính niên rồi lại tủi thầm,
Con đường Cực Lạc biết tầm sao ra.

1081.

Nhẫng vơ vẩn vào ra bến khổ,
Trước mặt xem những chỗ sầu than.
Nầy là hình ảnh của chàng,
Nầy là tiếng khóc của đàn trẻ con.

1085.

Nầy là chỗ thiếp còn niên thiếu,
Nầy là nơi chàng níu thiếp trì.
Nầy là buổi hiệp hồi ly,
Nầy là khi khóc khi thì cười mơn.

1089.

Nầy là chỗ lời hơn tiếng thiệt,
Nầy là nơi cách biệt sanh ly.
Nầy là chỗ thiếp chẳng vì,
Nầy nơi chàng giận ra đi bỏ nhà.

1093.

Nầy là chỗ đôi ta tái hiệp,
Nầy là nơi vừa kịp hoà vui.
Nầy là chỗ thiếp đương ngồi,
Tin nghe chàng đã qui hồi Tiên bang.

1097.

Các chỗ ấy dẫy tràn thảm tín,
Càng ở gần khó nhín sầu than.
Cam tâm nín nẩm gia đàng,
Vì con chưa giữ vững vàng qui mô.

1101.

Nay tuyết đóng song hồ động lãnh,
Đành cửa không gởi mảnh tâm hồn.
Tiếng chuông thức giấc huỳnh lương,
Toan nương thuyền huệ vào đường vĩnh sanh.

1105.

Bước cảnh tịnh đã đành để cẳng,
Tóc qui y nửa trắng nửa vàng.
Phồn hoa xa mã rộn ràng,
Vinh vinh nhục nhục dẫy tràn kiếp căn.

1109.

Ngắm thế cuộc chẳng bằng một giấc,
Kiếp phù sinh đặng thất là bao.
Nhẫng là đeo thảm chác sầu,
Tóc xanh cho tới bạc đầu cũng in.

1113.

Nào là phép giựt giành quyền lợi,
Nào là phương chuộng quới cầu vinh.
Thử đem sánh khổ kiếp sanh,
Chưa ai thấy đặng phước giành nhiều hơn.

1117.

Nào vui gượng do cơn khóc lỡ,
Nào là khi chịu tớ làm thầy.
Quyền là chi? Lợi là chi?
Dứt hơi ba tấc có gì gọi hay.

1121.

Nào là lúc ăn cay uống đắng,
Nào là khen rồi mắng bao phen.
Tuồng đời trọng trọng hèn hèn,
Chẳng qua bướm tối mến đèn xôn xao.

1125.

Nào chửa đẻ biết bao khổ nhọc,
Nào hơn thua theo học sách đời.
Tang thương lúc biến khi dời,
Trăm năm e cũng một đời thế thôi.

1129.

Nào tranh đấu thắng rồi lại thất,
Của phù du chứa chất gọi giàu.
Thân còn đã quí là bao,
Dứt hơi của cải thế nào không hay.

1133.

Thiệt thì bỏ, giả vay nên nợ,
Mãn căn sanh chưa mở dây oan.
Kìa là vua, nọ là quan,
Cũng như bọn hát hý tràng bán vui.

1137.

Sống thấy chết, miệng cười mắt khóc,
Nịnh lừa trung, lưỡi thọc tay đâm.
Cũng như ác thú nhốt hầm,
Cắn nhau cho đã nào cần mệnh nhau.

1141.

Muốn lấy đạo làm đao hại thế,
Toan dùng văn gọi kế sanh nhai.
Đường hung ác, nẻo chông gai,
Lấn chen vào chốn nghiệt đài gọi ngoan.

1145.

Mạnh hiếp yếu lấy gan hung bạo,
Dữ lấn hiền gươm giáo là hơn.
Nhẫng lo chác oán mua hờn,
Hại nhau chẳng biết nghĩa nhơn thế nào.

1149.

Thấy cảnh thế mà đau với thế,
Biết thương đời mấy kẻ vì đời.
Ngán thay cái kiếp con người,
Thôi đành bến Phạm kiếm lời Phật răn.

1153.

Thay đạo phục bước xăng lánh thế,
Mơi thì kinh, tối kệ giải lòng.
Từ bi hứng giọt nhành dương,
Lau thanh trái chủ, lấp đường nghiệt căn.

1157.

Đoạn tình ái đem quăng bể khổ,
Bứt hồng duyên tính bỏ non thề.
Nầy bờ tục, nọ bến mê,
Từ đây không trở lộn về thấy ngươi.

1161.

Vì thấy đó phải cười lộn khóc,
Sách của ngươi chẳng học mà say.
Cửa ngươi cửa đoạ cửa đày,
Ghét ngươi ta dứt từ ngày buổi ni.

1165.

Lần chuỗi hột từ bi cứu khổ,
Nương gió thanh trăng tỏ là nhà.
Nước non để bước ta-bà,
Sô xiêm đem nhuộm màu dà gọi duyên.

1169.

Trương thẳng cánh con thuyền Bát Nhã,
Cổi đau thương giải quả trừ khiên.
Lấy thân rửa thảm lau phiền,
Đem công chuộc khách thuyền quyên luỵ tình.

1173.

Túi gió trăng thinh thinh rộng mở,
Vui hạc cầm hay dở thú riêng.
Khi động Thánh, lúc non Tiên,
Sớm thì Hải đảo, tối miền Thiên Thai.

1177.

Đạp giày cỏ nương cây gậy bá,
Mặc áo tơi nón lá che thân.
Trừ trần cấu, xủ phất trần,
Quen bờ biển trí, dựa gần non nhân.

1181.

Đến phồn hoa thân gần tục lự,
Chơi lầu hồng hỏi thử trái căn.
Chuỗi bồ trừ nghiệt gió trăng,
Linh đơn cứu kẻ khổ phần liễu hoa.

1185.

Gót nhân ái đến nhà kẻ bịnh,
Giọng từ bi thức tỉnh hung tâm.
Giữa cơn náo loạn trổi cầm,
Lấy hơi hoà nhã dẹp lần bỉ thô.

1189.

Giúp những kẻ ôm mồ thủ hiếu,
Dỗ những trang bận bịu khối tình.
Dọn đường phước giúp mày xanh,
Đưa con thuyền hạc đến gành thiên lương.

1193.

Tưới hoa chạ bên đường vô chủ,
Đậy giậu thưa cúc xủ mai xào.
Bó lòng thảm, dệt tâm đau,
Nâu sồng cậy phép đổi màu anh hoa.

1197.

Câu tư dục biến ra bác ái,
Nghiệp oan khiên đổi lại hồng ân.
Khi kinh Thánh, lúc kệ Thần,
Đoạn trường diệt dứt nợ nần nữ lưu.

1201.

Lầu xanh giặm màu tu trở vẻ,
Cửa không môn mở hé chơn hồng.
Thu phòng học chước thu không,
Đốt hương cho ấm cho nồng phòng tiêu.

1205.

Đưa tuổi hạc quen chiều non nước,
Mượn bút nghiên làm chước chê đời.
Nâng bầu nhựt nguyệt lưng vơi,
Dành gương liệt nữ để lời trinh phu.

1209.

Nắm huệ kiếm định thâu trái chủ,
Mặc đạo y sạch giũ phồn hoa.
Nơi bến khổ để bước già,
Xuân xanh noi dấu xây toà anh phong.

1213.

Cột thân ái cậy lòng đạo đức,
Gầy từ tâm gắng sức ôn nhu.
Nung trang trí thức nữ lưu,
Biết thân giữ mặt hảo cừu giai nhân.

1217.

Giồi trí thức tinh thần đẹp đẽ,
Trau tài ba vẹn vẻ anh thư.
Vinh thì chuộng, nhục thì từ,
Cân cao tính thấp đặng trừ thiệt hơn.

1221.

Nước Ma-Ha rửa hờn nhi nữ,
Chuỗi bồ đề gìn giữ hồng nhan.
Cây trăm thước đổi hương tàn,
Treo y bá nạp làm màn phòng the.

1225.

Để chuông mõ dựa kề son phấn,
Chất nhơn tình chồng cận kệ kinh.
Tâm ẩn ái giúp Chí Linh,
Biển mê chèo chiếc thuyền tình độ nhân.

1229.

Lấy tâm chánh làm cân đong thế,
Cậy lòng lành làm kế dìu đời.
Chông gai vạch bước thảnh thơi,
Cầm phương cứu khổ độ người trầm luân.

1233.

Vẹn nhơn đạo, đi lần nẻo chánh,
Đến vô ưu đặng lánh nhơn luân.
Thuyền con mệch mệch như rừng,
Đon đường Thánh đức, hỏi chừng Như Lai.

1237.

Am tự đóng chặt gài bước tục,
Nước Cam lồ cho phúc tiêu diêu.
Oan trái dứt, nghiệp chướng tiêu,
Cảnh vui Cực Lạc mỹ miều vẻ tâm.

1241.

Lánh bợn tục tình thâm cũng tránh,
Trốn đau thương xa cảnh trần gian.
Biến thân hạc nội mây ngàn,
Nắm phan Tiếp Dẫn, mở đàng Lôi Âm.

1245.

Nơi cảnh tịnh âm thầm vui thú,
Đem tấm tình để ngụ đài sen.
Thong dong quạt gió trăng đèn,
Nhành dương làm bạn, sách hiền gọi quen.

1249.

Bế ngũ quan, không kiêng tục tánh,
Diệt lục trần, xa lánh phàm tâm.
Mệnh Thiên giữ vững tay cầm,
Đoạt phương tự diệt giải phần hữu sanh.

1253.

Linh linh, hiển hiển, khinh khinh khứ,
Sắc sắc, không không, sự sự tiêu.
Chơn linh đẹp đẽ mỹ miều,
Xuất dương sớm đã đến triều Ngọc Hư.

1257.

Ngũ khí thanh diệt trừ quả kiếp,
Linh quang đầy đặng tiếp hồng ân.
Xác tại thế, đã nên Thần,
Ba mươi sáu cõi đặng gần Linh Thiên.

1261.

Hiệp Tạo hoá cầm quyền chuyển thế,
Dạy vạn linh dụng thế từ bi.
Sanh ấy ký, tử là qui.
Diệu huyền cơ tạo chẳng gì gọi hơn.

1265.

Chừ mới rõ nguồn cơn kiếp sống,
Tấc thây phàm rất mỏng số căn.
Ham phương cứu thế độ nhân,
Giải mê khách tục, cõi trần lánh xa.

1269.

Lấy bác ái làm hoà vạn vật,
Đem thiện duyên xây nấc thang hồng.
Đoạn căn đóng chặt Âm cung,
Toà sen chín phẩm để cùng Phật tâm.

1273.

Trăm tuổi sống chẳng lầm tuổi sống,
Một kiếp sanh chưa trọng kiếp sanh.
Thay thân Tạo hoá là mình,
Nâng niu sanh chúng mới đành chữ nhơn.

1277.

Ngồi mà lóng tiếng đờn vô cực,
Phước siêu thăng đặng thất nơi ta.
Biết coi thế giới như nhà,
Sống nên Chí Thánh, thác là Thần Tiên.

1281.

Thiếp nhờ Đạo giải phiền diệt khổ,
Biết may duyên lựa chỗ gởi tâm.
Tìm đâu đặng kẻ tri âm,
Ôm thương đem gởi cảnh Thần cửa Không.

1285.

Càng ngó trái lại miền thế tục.
Luỵ nhỏ dầm đòi khúc lòng đau.
Ái ân, ân ái là sao?
Đày thân lắm khách má đào gian truân.

1289.

Chịu mòn mỏi mảnh thân nhi nữ,
Cũng toan lo gìn giữ khối tình.
Trăm năm dầu sống mảnh hình,
Thì trong tâm lý đã đành tiêu tan.

1293.

Nào những mộng nợ chàng duyên thiếp,
Nào những mơ ý hiệp tâm đầu.
Duyên là đâu, nợ là đâu?
Chẳng qua biển khổ bắc cầu sông mê.

1297.

Khối thảm chất tràn trề bể hẹn,
Giọt đau thương quá chén hiệp phu.
Hễ là trí, ấy là ngu,
Càng say âu yếm càng sầu nhớ thương.

1301.

Khách má phấn môi son đậm sắc,
Đặng đem mồi trêu mặt ác phong.
Đâu chữ tiết gọi là đồng,
Lời than tiếng thiết để lòng trăm năm.

1305.

Chẳng qua khách ăn nằm quán tục,
Vắn một ngày, lâu chút trọn đời.
Hỏi ai thoả chí ai ơi?
Tra phòng hiệp cẩn, bao hồi khóc riêng.

1309.

Một câu mến gieo phiền muôn tiếng,
Đôi lời phân ngàn miệng xa xôi.
Hỏi ai trộm đứng lén ngồi,
Những cay những đắng cái mùi ra sao?

1313.

Tính để viết khuyên rào tiết ngọc,
Thì sợ e ghẹo chọc si tình.
Còn không để trọn lời lành,
Lại e cho gái nhẹ mình nữ trung.

1317.

Toan để bút ngăn vòng chồng vợ,
Thì lại e nghịch nợ tiền khiên.
Còn không lưu lại lời hiền,
Mưu chi gỡ nổi thảm phiền đạo thê.

1321.

Thấy trẻ gái dầm dề luỵ đổ,
E cho sau chịu số như già.
Muốn khuyên đầu Phật xuất gia,
Lại e để hại nước nhà khuyết dân.

1325.

Thấy nhi nữ kiếp căn mỏng mảnh,
Muốn binh lời làm mạnh đỡ nâng.
Lại e lỗi đạo nhơn luân,
Dở dang gia pháp, vương thần loạn ngôi.

1329.

Gẫm thân gái trọn đời cực nhọc,
Tính buông câu gọi chút nghỉ ngơi.
Lại e sái thế lỡ thời,
Giúp nam nhân chẳng có người trọn tâm.

1333.

Nghĩ phận vợ ngàn trăm đau đớn,
Sanh đẻ còn nuôi dưỡng nhọc nhằn.
Muốn khuyên giảm bớt ái ân,
Lại e giục kẻ Tấn Tần chia phôi.

1337.

Nên ngậm thảm đặng ngồi nuốt thảm,
Toan buông lời, chẳng dám hở môi.
Lén xem sự thế ngậm ngùi,
Nguyền trông chỉ đợi phép Trời dạy khuyên.

1341.

Tay lịch sự tự nhiên chê sự,
Lòng đa tình vẫn cứ vị tình.
Biết tùng quyền hiểu chấp kinh,
Tìm phương hay gởi lấy mình cửa tu.

1345.

Những thảng mảng tháng thâu năm lụn,
Sớm công phu, tối tụng vãng sanh.
Đã quen cảnh Phạm lánh mình,
Nên phương nhờ bởi đoạn tình ái yêu.

1349.

Nghe một sự, hiểu điều khác nghĩ,
Trong thất tình tiêu huỷ không không.
Hết ham danh, chẳng mến công,
Xem hình lẩn lộ, bùi nồng thế gian.

1353.

Cây trăm thước bắc thang bến khổ,
Hoa bốn mùa thơm chỗ nhớp nhơ.
Vui đọc truyện, buồn ngâm thơ,
Non Vu lấp nẻo, đàn tơ dở mùi.

1357.

Đếm thử tuổi tám mươi đã quá,
Giấc Nam Kha giục giã tỉnh mê.
Tâm thần mỏi mệt ủ ê,
Khối sanh khi đã gần kề dứt hơi.

1361.

Khổ bịnh thấy trêu người đã quá,
Buổi vãng sanh giục giã kêu hồn.
Tỉnh say trong kiếp dương môn,
Nửa thì thấy cảnh hoàng hôn mộng hình.

1365.

Muốn gặp mặt thâm tình gởi trối,
Nhưng lỡ bề vì buổi đoạn từ.
Khôn nhạn tín, khó hồng thư,
Viết quơ chẳng nổi, giấy như tránh đề.

1369.

Muốn nhắm mắt một bề cho khoẻ,
Những tình hình mọi vẻ trêu ngươi.
Khi thì khóc, lúc thì cười,
Bao nhiêu tình nghĩa một đời thoáng qua.

1373.

Tám chục năm lâu xa cách mấy,
Trong giấc mê xem thấy ngắn thay!
Ba vạn sáu ngàn ngày,
Cõi dương gian với tuyền đài gần nhau.

1377.

Nhớ con cháu còn lâu kiếp sống,
Dầu gặp hình như bóng sá chi.
Dở hồn phách, yếu thây thi,
Dậy ngồi chẳng nổi, bước đi không rồi.

1381.

Gắng cầm viết nín hơi sống rốt,
Đề năm vần khắc cốt nữ lưu.
Dứt tình ái, giải sầu ưu,
Hễ thương thì cũng lo mưu giữ mình.

1385.

Giữ mình dầu vẹn tấm tình chung,
Danh tiết nữ lưu ở phụ tùng.
Mặt biển khổ dồi dào ái thuỷ,
Đầu non thề huỷ hoại hương hồng.

1389.

Mày xanh khá nhớ cơn đầu bạc,
Ngọc trắng đừng cho nhiễm bợn bùn.
Khí tượng anh thư gìn lẫn giá,
Giúp đoàn nhi nữ mở non sông.

1393.

Rán quá sức cẩn phong thí nhạn,
Dường say mê lơ lảng tinh thần.
Sấn tay thêm một chữ: Thân,
Để dành gỡ khổ đoạn tràng hồng nhan.

1397.

Buông ngọn viết vào làn mây trắng,
Hễ có thương nhớ dạng là hơn.
Cảnh Thiên gởi tấc hương hồn,
Đề câu tiết nghĩa vĩnh tồn hậu lai.

1401.

Đời đời danh chói Cao Đài.

Đoàn Thị Điểm và bản dịch thơ từ tác giả khác

Nói về phần dịch thơ thì Đoàn Thị điểm có tác phẩm dịch thơ nổi tiếng, đó là Chinh phụ ngâm (Chi phụ ngâm khúc) của tác giả Đặng Trần Côn. Đặc biệt, bản dịch thơ Chinh phụ ngâm Đoàn Thị Điểm được xem là bản dịch đầu tiên của tác phẩm này.

Dưới đây là toàn bộ bản dịch bài thơ Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm:

Nhẽ trời đất thường khi gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.
Xanh kia thăm thẳm tầng trên,
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?
Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt,
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây.
Chín lần gươm báu chóng tay,
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.
Nước thanh bình ba trăm năm cũ,
Áo nhung trao quan vũ từ đây.
Sứ trời sớm giục đường mây,
Phép công là trọng, niềm tây sá nào.
Đường rong ruổi lưng đeo cung tiễn,
Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa.
Bóng cờ tiếng trống xa xa,
Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng.
Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
Thành liền mong tiến bệ rồng,
Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời.
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,
Gieo Thái Sơn bằng độ hồng mao.
Giã nhà đeo bức chiến bào,
Tiếng roi cầu Vị, độn vào gió thu.

Ngòi đầu cầu, nước trong như lọc,
Đường bên cầu, cỏ mọc còn non.
Ðưa chàng lòng dằng dặc buồn,
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền.
Nước trong chảy, lòng phiền chẳng rửa,
Cỏ xanh thơm, dạ nhớ không quên.
Nhủ rồi tay lại trao liền,
Bước đi một bước lại vin áo chàng.
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi,
Dạ chàng xa muôn cõi nghìn non;
Đặt chén tiễn múa Long Tuyền,
Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo.
Săn Lâu Lan rằng theo Giới Tử;
Tới Man Khê bàn sự Phục Ba.
Áo chàng đỏ tựa ráng pha,

Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.
Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống,
Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay!
Hà lương chia rẽ đường này,
Bên đường trông bóng cờ bay ngùi ngùi.
Quân trước đã tới ngoài doanh Liễu
Ngựa sau còn ở nẻo Tràng Dương
Quân đưa chàng ruổi lên đường,
Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng?
Tiếng địch ruổi xa chừng lăng lắc.
Hàng cờ bay bóng ngất mờ mờ.
Dứt tay theo lớp mây đưa.
Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà.
Chàng thì chạy cõi xa mưa gió,
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn.
Đoái trông theo đã cách ngăn,
Những màu mây biếc, cũng ngần núi xanh
Chốn Hàm Kinh chàng còn ngoảnh lại,
Bến Tiêu Tương thiếp hãi trông sang.
Khói Dương Tương cách Hàm Dương,
Cây Hàm Dương cách Dương Tương mấy trùng.
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?

Chàng từ chạy vào nơi gió bụi,
Ðêm trăng này nghỉ mát phương đâu?
Xưa nay chiến địa dường bao!
Núi không muôn dặm xiết lao dãi dầu!
Hơi gió lạnh, người rầu mặt dạn,
Dòng nước sâu, ngựa giận chân bon.
Ôm yên, gối trống đã chồn,
Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh.
Nay Hán xuống Bạch thành đóng lại,
Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua.
Hình khe thế núi gần xa,
Dứt thôi lại nối, thấp đà lại cao.
Sương đầu núi, buổi chiều như gội,
Nước lòng khe, nẻo lõi còn sâu.
Não người áo giáp bấy lâu,
Lòng quê qua đó mặt rầu chẳng khuây.
Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ?
Dạng chinh phu ai vẽ cho nên?
Tưởng chàng rong ruổi mấy niên,
Chẳng nơi Hãn hải thì miền Quan san.
Đã trắc trở đòi ngàn xà hổ
Lại lạnh lùng những chỗ sương phong,
Lên cao trông thức mây lồng,
Lòng nào là chẳng động lòng bi thương?
Từ chạy sang đông nam ngất nẻo
Biết rằng chàng tiến thảo nơi đâu?
Những người chinh chiến bấy lâu,
Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây
Nức hơi mạnh ơn dày từ trước;
Trải chốn nghèo, tuổi được bao nhiêu?
Non Kỳ mộ chỉ trăng treo,
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người,
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn?
Dấu binh lửa, nước non như cũ,
Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương.
Phận trai: già cõi chiến trường,
Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về.
Tưởng chàng trải những bề nắng nỏ.
Ba thước gươm, một bộ nhung yên.
Xông pha gió bãi trăng ngàn,
Mũi treo đầu ngựa, giáo dan mặt thành.
Áng công danh trăm đường rộn rã,
Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi,

voh-tho-doan-thi-diem-5

Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai?
Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây.
Trong cửa này, đã đành phận thiếp,
Ngoài mây kia, há kiếp chàng đâu?
Những mong cá nước cùng nhau,
Nào ngờ mây nước bóng đâu cách vời.
Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ
Chàng há từng học lũ vương tôn?
Cớ sao cách trở nước non,
Khiến người thôi sớm, thì hôm giãi rầu.
Phác phong lưu đương chừng niên thiếu,
Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên;
Nỡ nào đôi lứa thiếu niên
Quan san để cách hàn huyên bao đành?
Thuở lâm hành, oanh chưa bén liễu.
Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca
Nay quyên đã giục oanh già.
Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo,
Thuở đăng đồ mai chưa dạn gió
Hỏi ngày về chỉ độ đào bông,
Nay đào đã quyến gió đông
Tuyết mai trắng bãi phù dung đỏ bờ.
Hẹn cùng ta: Lũng Tây sầm ấy,
Suốt ngày trông nào thấy hơi tăm?
Ngập ngừng lá rụng cành trâm,
Đứng trông nghe dậy tiếng cầm lao xao.
Hẹn nơi nao, Hán Dương cầu nọ.
Đêm lại tìm nào có tiêu hao:
Ngập ngừng gió thổi áo bào
Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông.
Tin gửi đi người không thấy lại,
Hoa dương tàn đã trải rêu xanh.
Rêu xanh mấy lớp chung quanh,
Dạo sân một bước trăm tình ngẩn ngơ!
Thư thường đến, người không thấy đến,
Bức rèm thưa lần chuyển bóng dương.
Bóng dương mấy buổi xuyên ngang.
Lời sao mười hẹn chín thường đơn sai?

Thử tính lại diễn khơi ngày ấy.
Tiền sen này đã nẩy là ba.
Xót người lần lữa ải xa,
Xót người nương chốn Hoàng hoa dặm dài.
Tình gia thất nào ai chẳng có,
Kìa lão thân khuê phụ nhớ thương.
Tác già phơ phất mái sương,
Con thơ măng sữa, vả đương phù trì.
Lòng lão thân buồn khi tựa cửa
Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm.
Ngọt bùi thiếp đỡ hiếu nam,
Luyện con đèn sách, thiếp làm phụ thân
Nay một thân nuôi già, dạy trẻ,
Nỗi quan hoài mang mẽ biết bao.
Nhớ chàng trải mấy sương sao
Xuân từng đổi mới, đông nào còn xa!
Kể năm đã ba tư cách diễn
Mối lòng thêm nghìn vạn ngổn ngang,
Ước gì gần gũi tấc gang,
Giở niềm cay đắng để chàng tỏ hay.
Thoa cung Hán của ngày xuất giá
Gương lầu Tần, dấu đã soi chung.
Cậy ai mà gửi tới cùng,
Xin chàng thấu hết tấm lòng tương tư.
Nhẫn đeo tay mỗi khi ngắm nghía,
Ngọc cài đầu thuở bé vui chơi.
Cậy ai mà gửi đến nơi,
Ðể chàng trân trọng dấu người tương thân?

Trải mấy xuân tin đi tin lại,
Đến xuân này tin hãy vắng không.
Thấy nhạn luống tưởng thư phong.
Nghe hơi sương, sắm áo bông sẵn sàng.
Gió tây nổi, không đường hồng tiện,
Xót cõi ngoài tuyết quyến, mưa sa.
Màn mưa trướng tuyết xông pha,
Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài.
Ðề chữ gấm phong thôi lại mở.
Gieo quẻ tiền tin dữ còn ngờ.
Trời hôm tựa cửa ngẩn ngơ,
Trăng khuya nương gối bơ phờ gió mai.
Há như ai hồn say bóng lẫn,
Bỗng thờ ơ lẫn thẩn hư không.
Trâm cài, xiêm giắt thẹn thùng,
Trải làn tóc rối, lỏng vòng lưng eo.
Dạo hiên vắng, đem gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ, gác đòi phen.
Ngoài rèm, thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Ðèn có biết, dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.

Buồn muộn nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người há thương,
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc bằng miền bể xa.
Hương gượng đốt, lòng đà mê mải,
Gương gượng soi, lệ lại chứa chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng,
Lòng này gửi gió đông có tiện,
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên,
Non Yên dù chẳng đến miền.
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Cảnh vui người thiết tha lòng,
Hình cây sương giọt, tiếng trùng mưa phun.
Sương như búa bổ mòn gốc liễu.
Mưa dường cưa cưa héo cành ngô.
Đòn tuyết phủ bụi chim gù,
Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa tiếng khơi.
Vài tiếng dế, nguyệt lay trước ốc,
Một hàng tiêu, gió thốc ngoài hiên.
Màn trong lan sổ gió xuyên,
Trăng lơi hoa bóng soi lên trước rèm.
Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông,
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu!

Ðâu xiết kể muôn sầu nghìn não.
Từ nữ công, phụ xảo đều nguôi,
Biếng cầm kim, biếng đưa thoi,
Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa,
Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói
Sớm lại chiều, dòi dõi nương song;
Nương song luống ngẩn ngơ lòng.
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?
Biếng trang điểm lòng người phiền não,
Xót nỗi chàng ngoài cõi Giang Băng.
Khác gì ả Chức chị Hằng,
Bến Ngân sùi sụt cung trăng chốc mòng.
Sầu ôm nặng, ai chồng làm gối,
Muộn chứa đầy, ai thổi làm cơm.
Mượn hoa, mượn rượu giải buồn,
Sầu làm rượu nhạt, muộn dồn hoa ôi.
Gõ sênh ngọc mấy hồi không tiếng.
Ôm đàn tranh, mấy phím rời tay;
Xót người hành dịch bấy nay,
Dặm xa mong mỏi, hết đầy lại vơi.
Ca quyên ghẹo làm rơi nước mắt,
Trống tiều khua như rứt buồng gan.
Võ vàng đổi khác dung nhan,
Khuê ly mới biết tân toan dường này.

Nếm chua cay, tấm lòng mới tỏ.
Mùi cay này há có vì ai?
Vì chàng, lệ thiếp nhỏ đôi,
Vì chàng, thân thiếp lẻ loi một bề.
Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng.
Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn,
Vui còn hồn mộng được gần,
Ðêm đêm thường đến Giang tân tìm người
Tìm chàng nơi Dương Đài lối cũ.
Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa:
Sum vầy mấy lúc tình cờ,
Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân.
Giận thiếp thân lại không bằng mộng
Thì gần chàng bến Lũng thành Quan.
Khi mơ, những tiếc khi tàn,
Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không!
Vui có một tấm lòng chẳng dứt,
Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi!
Lòng theo nhưng chửa thấy người,
Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe.
Trông bến nam, bãi chia mặt nước,
Cỏ biếc sum, dâu lướt mầu xanh.
Xóm làng gần nửa lênh chênh,
Chim còn bãi cát những tình chiều hôm.
Trông đường bắc, từng chòm quán khách,
Mây biếc cây núi ngất trời xanh;
Nửa lúa thêm nửa hoang thành,
Mưa phun mặt nước địch quanh ốc lầu.
Non đông thấy lá hầu chất đống.
Trĩ xập xòe mai cũng bẻ bai,
Khói mù nghi ngút ngàn khơi,
Con chim bạt gió lạc loài kêu thương.
Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc,
Nhạn cánh không, sóng giục thuyền câu:
Ngàn thông chen chúc cỏ lau,
Cách thuyền nào thấy người đâu đi về.
Trông tư bề chân trời mặt đất;
Lên, xuống lầu thấm thoát đòi phen;
Lớp mây kĩ mắt ngại nhìn,
Đâu cõi chinh chiến đâu miền Ngọc quan?

Gậy rút đất dễ khôn học chước,
Khăn gieo cầu nào được thấy tiên,
Lòng này hóa đá cũng nên,
E không lệ ngọc mà lên trông lầu.
Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu,
Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong.
Chẳng hay muôn dặm ruổi rong,
Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng?
Lòng chàng ví cũng bằng như thế,
Lòng thiếp đâu dám nghĩ gần xa;
Hướng dương lòng thiếp dường hoa,
Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương.
Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái,
Hoa để vàng cũng tại bóng dương;
Hoa vàng hoa rụng quanh tường,

Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần?
Chồi lan nở trước sân đã hái,
Ngọn tần kia bên bãi đưa hương.
Sửa xiêm dạo bước tiền đường,
Ngửa trông xem vẻ thiên chương thẫn thờ.
Bóng Ngân hán khi mờ khi tỏ,
Ðộ Khuê triền buổi có buổi không.
Thức mây đòi lúc nhạt nồng,
Trông sao Bắc đẩu thôi đông lại đoài.
Mặt trăng tỏ thường soi bên gối,
Bừng mắt trông sương gội cành ngô.
Lạnh lùng thay mấy chiều thu,
Gió may hiu hắt trên đầu tường vôi.
Một năm một lạt mùi son phấn,
Trượng phu còn lẩn thẩn miền khơi:
Xưa sao hình ảnh chẳng rời,
Bây giờ nỡ để cách vời Sâm Thương?

Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ,
Thiếp dạo hài lối cũ rêu in.
Gió xuân ngày một vắng tin,
Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì.
Sợ nhớ khi cành đào đóa mận,
Trước gió xuân vàng tía sánh nhau;
Nọ thì ả Chức, chàng Ngưu.
Đến trăng thu lại bắc cầu sang sông.
Thiết một thân phòng không luống giữ,
Thời tiết lành nhầm nhỡ đòi nau;
Thoi đưa ngày tháng ruổi mau,
Người đời thấm thoát qua màu xuân xanh
Xuân xanh để hận quanh ở dạ.
Hợp ly đành buồn quá khi vui.
Oán sầu nhiều mối tơi bời,
Liễu bồ hầu dễ ép nài chiều xuân.
Kìa Văn Quân mỹ miều thuở trước,
E đến khi đầu bạc mà thương.
Mặt hoa nọ ả Phan lang,
Sợ khi mái tóc pha sương cũng ngừng
Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở,
Tiếc quang âm lần lữa gieo qua.
Nghĩ mệnh bạc, tiếc niên hoa!
Gái tơ mấy chốc mà ra nạ giòng
Gác hương nọ mơ màng vẻ mặt,
Lầu hoa kia, phảng phất hơi hương.
Trách trời sao để nhỡ nhàng,
Thiếp rầu, thiếp lại rầu chàng chẳng quên.

Chàng chẳng thấy chim uyên ở nội?
Cũng dập dìu chẳng vội phân trương.
Lại chẳng thấy chim yến trên rường, 355
Bạc đầu không nỡ đôi đường giã nhau.
Kìa loài sâu đôi đầu cùng sánh,
Nọ loài chim chắp cánh cùng bay.
Liễu, sen, là thức cỏ cây,
Ðôi hoa cùng sánh, đôi cây cùng liền.
Ấy loài vật tình duyên còn thế,
Sao kiếp người nỡ để đấy, đây?
Thiếp xin muôn kiếp duyên này,
Như chim liền cánh, như cây liền cành.
Ðành muôn kiếp chữ tình đã vậy,
Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau,
Thiếp xin chàng chớ bạc đầu,
Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung.
Xin làm bóng theo cùng chàng vậy.
Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên;
Chàng nương vầng nguyệt thiếp nguyền,
Mọi bề trung hiếu thiếp xin vẹn tròn.
Lòng hứa quốc thắm son ngăn ngắt,
Sức tý dân tiêu sắt tri tri.
Máu Đan Vu đầu Nguyệt Thị,
Ấy thì buổi uống, ấy thì buổi ăn.

Mũi đòng vác đòi lần hăm hở,
Ðã lòng trời gìn giữ người trung.
Hộ chàng trăm trận nên công,
Buông tên ải bắc, treo cung non đoài.
Bóng cờ xí giã ngoài quan ải,
Tiếng khải ca trở lại Thần kinh.
Đỉnh non khắc đá đề danh,
Triều thiên vào trước cung đình dâng công,
Nước duềnh Hán nên đồng rửa sạch,
Khúc Nhạc Từ réo rắt tiếng khen.
Tài so Tần, Hoắc vẹn tuyền,
Tên ghi gác Phượng tượng truyền đài Lân,
Đền huân tướng đai cân vày vẽ.
Chữ đồng hưu bia để nghìn đông.
Ơn trên tử ấm, thê phong,
Hiển vinh thiếp cũng đượm chung hương trời.
Thiếp chẳng dại như người Tô phụ,
Chàng hẳn không như lũ Lạc Dương.
Khi về đeo quả ấn vàng,
Trên cung cửi, dám dẫy duồng làm cao.
Xin vì chàng cất bào cởi giáp,
Xin vì chàng giũ lớp phong sương.
Vì chàng tay chuốc chén vàng,
Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng.
Giở khăn lệ, chàng trông từng tấm,
Ðọc thơ sầu, chàng thẩm từng câu.
Câu vui đổi với câu sầu.
Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời.
Sẽ rót vơi lần lần đòi chén,
Sẽ ca dần giản giản đòi liên
Liên ngâm đối ẩm từng phen,
Cùng chàng lại kết mối duyên đến già.
Cho bõ lúc sầu xa cách nhớ,
Giữ gìn nhau vui chữ thanh ninh.
Ngâm nga mong gửi chữ tình,
Dường này âu hẳn tài lành trượng phu.

Trên đây là những thông tin sơ lượt về cuộc đời nhà thơ Đoàn Thị Điểm cùng các sáng tác, dịch thơ tiêu biểu nhất làm nên tên tuổi của bà, xứng danh Nữ sĩ Việt Nam xuất chúng thời Lê.

Đừng quên theo dõi chuyên mục Sống đẹp của voh.com.vn để cập nhật liên tục những kiến thức mới nhất, hấp dẫn nhất.

Bình luận