Giữa dòng chảy của thơ ca Việt Nam, Nguyễn Công Trứ nổi lên như một vì sao sáng. Thơ ông như một bức tranh phong cảnh hữu tình và chất chứa những bài học triết lý nhân sinh sâu sắc. Hãy cùng ngắm nhìn những dòng thơ tài hoa của thi sĩ xứ Nghệ qua tuyển tập thơ Nguyễn Công Trứ trong bài viết sau.
Tiểu sử nhà thơ Nguyễn Công Trứ
Sinh ra trong một gia đình Nho học tại làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh vào năm 1778, Nguyễn Công Trứ đã sớm thể hiện tài năng và cá tính độc đáo. Những năm tháng tuổi trẻ, ông sống trong cảnh nghèo khó nhưng có cơ hội tiếp xúc và yêu thích nghệ thuật ca trù. Chính điều này đã ảnh hưởng sâu sắc đến phong cách thơ ca phóng khoáng, tự do của ông sau này.
Năm 1819, Nguyễn Công Trứ đỗ đạt và bước vào con đường quan trường. Tuy nhiên, cuộc sống làm quan của ông không hề bằng phẳng. Ông trải qua nhiều thăng trầm, lúc thì được trọng dụng, lúc thì bị giáng chức. Dù vậy, ông luôn giữ vững khí tiết, trung thành phục vụ triều đình. Bên cạnh đó, ông còn là một nhà quản lý tài ba, có nhiều đóng góp trong việc mở rộng lãnh thổ và phát triển kinh tế.
Với tư tưởng phóng khoáng, Nguyễn Công Trứ đã để lại cho đời một khối lượng tác phẩm đồ sộ, chủ yếu bằng chữ Nôm. Ông đặc biệt yêu thích thể loại hát nói và đã nâng tầm loại hình nghệ thuật này lên một tầm cao mới. Thơ ca của Nguyễn Công Trứ không chỉ thể hiện tài năng văn chương mà còn phản ánh một tâm hồn yêu đời, yêu nước, dám nghĩ dám làm.
Qua đời vào năm 1858, Nguyễn Công Trứ để lại một di sản văn hóa vô cùng quý giá. Ông không chỉ là một nhà thơ tài hoa mà còn là một nhân cách lớn, một tấm gương sáng cho hậu thế noi theo.
Những bài thơ hay nhất của Nguyễn Công Trứ
Thơ Nguyễn Công Trứ không chỉ có giá trị về mặt nghệ thuật mà còn có giá trị về mặt tư tưởng. Ông đã để lại cho đời một di sản văn hóa vô cùng quý báu. Thơ ông vẫn luôn có sức hấp dẫn đặc biệt đối với người đọc bởi sự sâu sắc và đậm đà triết lý nhân sinh.
Bài ca ngất ngưởng
Vũ trụ nội mạc phi phận sự,
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Được mất dương dương người tái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
Chí làm trai
Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc,
Nợ tang bồng vay giả, giả vay.
Chí làm trai nam bắc đông tây,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể.
Nhân sinh tự cổ thuỳ vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
Đã hẳn rằng ai nhục với ai vinh,
Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ.
Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ,
Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong.
Chí những toan dời núi lấp sông,
Làm nên tiếng anh hùng đâu đấy tỏ.
Đường mây rộng thênh thênh cử bộ,
Nợ tang bồng trang trắng, vỗ tay reo.
Thảnh thơi thơ túi, rượu bầu.
Chí nam nhi
Thông minh nhất nam tử,
Yếu vi thiên hạ kỳ.
Trót sinh ra thời phải có chi chi,
Chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu.
Đố kị sá chi con Tạo,
Nợ tang bồng quyết trả cho xong.
Đã xông pha bút trận thì gắng gỏi kiếm cung,
Làm cho rõ tu mi nam tử.
Trong vũ trụ đã đành phận sự,
Phải có danh mà đối với núi sông.
Đi không chẳng lẽ về không?
Đi thi tự vịnh
Đi không, há lẽ trở về không?
Cái nợ cầm thư phải trả xong!
Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt
Trót đem thân thế hẹn tang bồng
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
Trong cuộc trần ai, ai dễ biết?
Rồi ra mới rõ mặt anh hùng.
Dại khôn
Trời đất đâu mà mãi rứa ru?
Xin tha nhau với chớ trêu nhau.
Bể đào xông xổ dầu tăm cá,
Mặt nước mông mênh mặc sức bèo.
Đã gớm hôi tay chù chẳng bắt,
Mấy trò liếm mặt chó không trêu.
Quản bao miệng thế lời khôn dại,
Dại trước khôn thời để lại sau.
Trò đời
Một lưng một vốc kém chi mô,
Cho biết chanh chua khế cũng chua.
Ðã chắc bữa trưa chừa bữa tối,
Mà tham con giếc tiếc con rô.
Trăm điều đổ tội cho nhà oản,
Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa.
Khó bó cái khôn còn nói khéo,
Dầu ai có quấy vấy nên hồ.
Hàn nho phong vị phú
Chém cha cái khó!
Chém cha cái khó!
Khôn khéo mấy ai?
Xấu xa một nó!
Lục cực bày hàng sáu, rành rành kinh huấn chẳng sai,
Vạn tội lấy làm đầu, ấy ấy ngạn ngôn hẳn có.
Kìa ai:
Bốn vách tường mo,
Ba gian nhà cỏ.
Đầu kèo mọt đục vẽ sao,
Trước cửa nhện giăng màn gió.
Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng,
Ống nứa đựng đầu kê đầu đỗ.
Đầu giường tre, mối dũi quanh co,
Góc tường đất, giun đùn lố nhố.
Bóng nắng dọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô,
Hạt mưa soi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó.
Trong cũi, lợn nằm gặm máng, đói chẳng muốn kêu,
Đầu giàn, chuột cậy khua niêu, buồn thôi lại bỏ.
Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no,
Đêm năm canh, an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ.
Ấm trà góp lá bàng lá vối, pha mùi chát chát chua chua,
Miếng trầu têm vỏ mận vỏ dà, buồn miệng nhai nhai nhổ nhổ.
Áo vải thô nặng trịch, lạnh làm mền, nực làm gối, bốn mùa thay đổi bấy nhiêu,
Khăn lau giắt đỏ lòm, giải làm chiếu, vận làm quần, một bộ ăn chơi quá thú.
Đỡ mồ hôi, võng lác, quạt mo,
Chống hơi đất, dép da, guốc gỗ.
Miếng ăn sẵn cà non mướp luộc, ngon khéo là ngon,
Đồ chơi nhiều quạt sậy điếu tre, của đâu những của.
Đồ chuyên trà, ấm đất sứt vòi,
Cuộc uống rượu, be sành chắp cổ.
Đồ cổ khí bức tranh treo trên vách, khói bay lem luốc, mầu thuỷ mạc lờ mờ,
Của tiểu đồng pho sách gác đầu giàn, gián nhấm lăm nhăm, dấu thổ châu đo đỏ.
Cỗ bài lá, ba đời cửa tướng, hàng văn sách mập mờ,
Bàn cờ săng, bảy kiếp nhà ma, chữ nhật chữ điền xiêu xó.
Lộc nhĩ điền lúa chất đầy rương,
Phương tịch cốc khoai vừa một rỏ.
Tiêu dụng lấy chi mà phao phóng, thường giữ ba cọc ba đồng,
Mùa màng dành để có bao nhiêu, chừng độ một chiêng một bó,
Mỏng lưng xem cũng không giầu,
Nhiều miệng lấy chi cho đủ.
Đến bữa chưa sẵn bữa, con trẻ khóc dường ong,
Qúa kỳ lại hẹn kỳ, nhà nợ kêu như ó.
Thuốc men rắp bòn chài gỡ bữa, song nghĩ câu ý dã, thế nào cho đáng giá lương y,
Thầy bà mong dối trá kiếm ăn, lại nghĩ chữ dũng như, phép chi được nổi danh pháp chủ.
Quẻ dã hạc toan nhờ lộc thánh, trút muối đổ biển, ta chẳng bõ bèn,
Huyệt chân long toan bán đất trời, ngôi mả táng cha, tìm còn chửa chỗ.
Buôn bán rắp theo nghề đỏ, song lạ mặt, chúng hòng rước gánh, mập mờ nên hàng chẳng có lời,
Bạc cờ toan gỡ con đen, chưa sẵn lưng, làng lại dành nơi, hỏi gạn mãi giạm không ra thổ.
Gấp khúc lươn, nên ít kẻ yêu vì,
Gương mắt ếch, biết vào đâu mượn mõ.
Đến lúc niên chung nguyệt quý, lấy chi tiêu đồng nợ đồng công?
Gặp khi đường xẩy chân cùng, nên phải tới cửa này cửa nọ.
Thân thỉ to to nhỏ nhỏ, ta đã mỏi cẳng ngồi trì,
Dần dà nọ nọ kia kia, nó những vuốt râu làm bộ.
Thầy tớ sợ men tìm đến cửa, ngảnh mặt cúi đầu,
Chị em e vất lấm vào lưng, chìa môi nhọn mỏ.
Láng giềng ít kẻ tới nhà,
Thân thích chẳng ai nhìn họ.
Mất việc toan dở nghề cơ tắc, tủi con nhà mà hổ mặt anh em,
Túng đường mong quyết chí cùng tư, e phép nước chưa nên gan sừng sỏ.
Cùng con cháu thuở nói năng chuyện cũ, dường ngâm câu lạc đạo vong bần,
Gặp anh em khi bàn bạc sự đời, lại đọc chữ vi nhân bất phú.
Tất do thiên, âu phận ấy là thường,
Hữu kỳ đức, ắt trời kia chẳng phụ.
Tiếc tài cả phải phạn ngưu bản trúc, dấu xưa ông Phó ông Hề,
Cần nghiệp kho khi tạc bích tụ huỳnh, thuở trước chàng Khuông chàng Vũ.
Nơi thành hạ đeo cần câu cá, kìa kìa người quốc sĩ Hoài âm,
Chốn lý trung xách thớt chia phần, nọ nọ đấng mưu thần Dương võ.
Khó ai bằng Mãi Thần Mông Chính, cũng có khi ngựa cưỡi dù che,
Giàu ai bằng Vương Khải Thạch Sùng, cũng có hội tường xiêu ngói đổ.
Mới biết:
Khó bởi tại trời,
Giàu là cái số.
Dầu ai ruộng sâu trâu nái, đụn lúa kho tiền,
Cũng bất quá thủ tài chi lỗ.
Khuyên người đời
Cho hay thiên hạ khéo xem gương
Hễ khó thời thôi mấy kẻ màng
Miệng nói đã đành mua chuyện ghét
Tay không chưa dễ ép người thương
Khéo khôn ai cũng tranh phần được
Trong sạch ta thời giữ mực thường
Ði lại chẳng qua thời với mệnh
Cũng đừng thắc mắc, chớ lo lường.
Phận anh nghèo
Nói phô nghe cũng giỏi con giai
Vì nỗi không tiền hóa dở ngài
Khôn khéo dễ hầu bưng khắp miệng
Khen chê thôi cũng gác ngoài tai
Tính quen mặt đó, đà ghe kẻ
Song biết lòng cho, dễ mấy ai?
Đã thế thời thôi thôi mặc thế
Đi lâu rồi mới biết đường dài.
Cây thông
Ngồi buồn mà trách ông xanh
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười.
Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
Giữa trời vách đá cheo leo,
Ai mà chịu rét thì trèo với thông.
Cây cau
Ơn chúa vun trồng kể xiết bao
Một ngày càng một rấn lên cao
Lưng đeo đai bạc, sương nào nhuốm?
Đầu đội tàn xanh, nắng chẳng vào
Buồng chất cháu con khôn xiết kể
Nhà nhiều quan khách dễ khuyên chào
Kình thiên một cột giơ tay chống
Dẫu gió lung lay cũng chẳng nao.
Thơ Nguyễn Công Trứ ngắn gọn cùng triết lý để đời
Sau đây là những bài thơ ngắn gọn nhưng thấm đẫm ý nghĩa của Nguyễn Công Trứ, từ đó mỗi độc giả sẽ tự chiêm nghiệm và có cho mình những triết lý sống sâu sắc, quý giá, những bài học cho riêng mình.
Cách ở đời
Ăn ở sao cho trải sự đời,
Vừa lòng cũng khó, há rằng chơi?
Nghe như chọc ruột, tai làm điếc,
Giận đã căm gan, miệng mỉm cười.
Bởi số chạy đâu cho khỏi số?
Luỵ người nên nỗi phải chiều người.
Mặc ai, chớ để điều ân oán,
Chung cục thời chi cũng tại trời.
Cảnh xa nhà
Nỗi nọ đường kia, xiết nói năng!
Đêm nằm không ngủ, biết mần răng?
Đầu ngành mấy tiếng chim kêu gió
Trước điếm năm canh chó sủa giăng
Phảng phất lòng quê khôn nén được
Mơ màng cuộc thế cũng cầm bằng
Đêm gà eo óc, trời chưa rạng
Tình tự này ai biết hay chăng?
Đời người thấm thoắt
Nhân sinh ba vạn sáu nghìn thôi
Vạn sáu tiêu nhăng đã hết rồi!
Nhắn con tạo hoá xoay thời lại,
Để khách tang bồng rộng đất chơi.
Khuyên người đời
Cho hay thiên hạ khéo xem gương
Hễ khó thời thôi mấy kẻ màng
Miệng nói đã đành mua chuyện ghét
Tay không chưa dễ ép người thương
Khéo khôn ai cũng tranh phần được
Trong sạch ta thời giữ mực thường
Đi lại chẳng qua thời với mệnh
Cũng đừng thắc mắc, chớ lo lường.
Muộn thành đạt
Cảnh muộn, đi về nghĩ cũng rầu
Trông gương mà thẹn với hàm râu!
Có từng gian hiểm, mình càng trí
Song lắm phong trần, lụy cũng sâu
Năm ấy đã qua thời chẳng lại
Lộc kia có muộn mới còn lâu
Khi vui giễu cợt mà chơi vậy
Tuổi tác ngần này đã chịu đâu!
Phường danh lợi
Cho hay trống thủng có làng bưng
Đã dễ rồi còn muốn dễ dưng
Mặc sức đâm thùng và tháo đáy
Tha hồ tráo đấu lại lường thưng
Khéo đem muối nọ toan gieo biển
Nghĩ rút dây kia sợ động rừng
Xấu máu xin đừng ăn của độc
Rượu làng thì uống rượu mua đừng.
Than cảnh nghèo
Vốn hễ anh hùng mới có nghèo
Sao mà ta lại trải trăm chiều?
Trái mùa, nghiệp cũ không nên bỏ
Ế chợ, nghề nhà cũng phải theo
Những giữ miệng đà không muốn nói
Làm sao bụng lại cứ thường trêu?
Suy ra mới biết rằng hay dở
Kể trước như ta dáng cũng nhiều.
Thế tình đen bạc
Vận chuyển cơ trời nghĩ cũng màu,
Chắc rằng ai đói, chắc ai giàu.
Kể đâu miệng thế khi yêu ghét,
Được mấy lòng người có trước sau.
Cuối tết mới hay rằng sớm muộn,
Giữa vời sao đã biết nông sâu ?
Hãy xem trời đất thời liền rõ,
Dầu nắng dầu mưa có mãi đâu!
Thế tình đối với người nghèo
No thời ra bụt đói ra ma,
Chẳng lạ nhân tình đất kẻ ta.
Khôn khéo chẳng qua thằng có của,
Yêu vì đâu đến đứa không nhà.
Ở đời mới biết cùng thời dễ,
Muôn sự cho hay nhịn cũng qua.
Cơ tạo có đi thời có lại,
Vạch vôi lấy đó mãi ru mà.
Trách đời
Chớ thấy người thương, bỗng hở hăm
Phải xem cho kĩ kẻo mà lầm
Chẳng ưa, thoắt chốc ra hờn mát
Không luỵ, càng nhiều tiếng nói xâm
Tưởng nỗi nhân tình mà ghét độc
Nghĩ trong thế cục những cười thầm
Thôi thôi chẳng nói chi cho lắm
Vốn hễ ân thâm, oán cũng thâm.
Thơ tình Nguyễn Công Trứ
Thơ tình của Nguyễn Công Trứ không chỉ thể hiện tình cảm lứa đôi mà còn là sự hòa trộn giữa cái "ngất ngưỡng" và tính lãng mạn trong sự tự tại, không bị ràng buộc bởi các lễ giáo đương thời.
Vịnh chữ tình
Cái tình là cái chi chi?
Dẫu chi chi cũng chi chi với tình.
Nói:
Đa tình là dở,
Đã mắc vào đố gỡ cho ra.
Khéo quấy người một cái tinh ma,
Trói buộc kẻ hào hoa biết mấy.
Đã gọi người nằm thiên cổ dậy,
Lại đưa hồn lúc ngũ canh đi.
Nực cười thay lúc phân kỳ,
Trông chẳng nói, biết bao nhiêu biệt lệ.
Tình huống ấy dẫu bút thần khôn vẽ,
Càng tài tình càng ngốc, càng si.
Cái tình là cái chi chi.
Tương tư
Tương tư không biết cái làm sao?
Muốn vẽ mà chơi, vẽ được nào!
Khi đứng khi ngồi khi nói chuyện
Lúc say lúc tỉnh lúc chiêm bao
Trăng soi trước mặt, ngờ chân bước
Gió thổi bên tai, ngỡ miệng chào
Một nước một non, người một ngả
Tương tư không biết cái làm sao?
Trách tình nhân
Đứng núi này trông núi nọ cao
Nhân tình ơ hỡ biết làm sao!
Nghĩ mình chưa phải tình Kim Trọng
Mà đó đà mang nợ Thúy Kiều
Non nước nước non ngao ngán nỗi
Cỏ hoa hoa cỏ ngẩn ngơ chiều
Vườn hoa kia để ai rong rả
Ong bướm xông pha dáng cũng nhiều.
Tuổi già cưới vợ hầu
Trẻ tạo hoá ngẩn ngơ lắm việc
Già Nguyệt ông cắc cớ trêu nhau
Kìa những người mái tuyết đã phau phau
Run rẩy kẻ đào tơ còn mảnh mảnh
Trong trướng gấm ngọn đèn hoa nhấp nhánh
Nhất tọa lê hoa áp hải đường
Từ đây tạc đá ghi vàng
Bởi đâu, trước lựa tơ chắp chỉ
Tân nhân dục vấn lang niên kỷ?
Ngũ thập niên tiền nhị thập tam!
Tình đã chung, lứa cũng phải vam
Suốt kim cổ lấy làm vận sự
Trong trần thế duyên duyên nợ nợ
Duyên cũng đành mà nợ cũng đành
Xưa nay mấy kẻ đa tình
Lão Trần là một với mình là hai
Càng già càng dẻo càng dai!
Bỡn cô đào già
Liếc trông giá đáng mấy mười mươi
Đem lạng vàng mua lấy tiếng cười
Giăng xế nhưng mà cung chửa khuyết
Hoa tàn song lại nhị còn tươi
Chia đôi duyên nọ đà hơn một
Mà nét xuân kia vẹn cả mười
Vì chút tình duyên nên đằm thắm
Khéo làm cho bận khách làng chơi.
Thơ Nguyễn Công Trứ đã vượt qua giới hạn thời gian, tỏa sáng và vẹn nguyên giá trị và ý nghĩa đối với chúng ta ngày nay. Hy vọng bài viết đã giúp bạn hiểu thêm về thơ Nguyễn Công Trứ, đồng thời nuôi dưỡng tình yêu đối với nền thi ca nước nhà. Đừng quên cập nhật liên tục những bài viết mới nhất, hấp dẫn nhất tại voh.com.vn - Sống đẹp.